Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo &PTNT Nam Hà Nội

Ngân hàng là một bộ phận của tổ chức tài chính trung gianvới nhiệm vụ là kênh chuyển vốn, dẫn vốn trong nền kinh tế. Trong đó, Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển . Ngân hàng giúp vốn chu chuyển một cách trôi chảy, điều hoà giữa cung , cầu về vốn. Do đó, mối quan hệ giữa Ngân hàng và các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, với khách hàng rất gắn bó, có tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau.

Từ khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì cơ cấu, tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng có sự thay đổi tương ứng và phù hợp. Bắt đầu từ quyết định số 218/QĐ-CP của Chính phủ năm 1987 cho đến Nghị định số 53/NĐ- CP năm 1988 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp và chuyển sang hoạt động hạch toán kinh doanh. Các ngân hàng được tự chủ tài chính, chủ động huy động vốn và cho vay theo khuôn khổ pháp luật. Do đó, đã nâmg cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, nhu cầu thiếu và thừa vốn trong nền kinh tế được đáp ứng nhanh chóng, kịp thời với chi phí hợp lý, sức cạnh tranh của Ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung ngày càng mạnh hơn, các quan hệ tài chính được lành mạnh hoá.

Như vậy, quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tương tác lẫn nhau. Doanh nghiệp không trả được nợ đến hạn, doanh thu của Ngân hàng giảm , ảnh hưởng đến việc cho doanh nghiệp khác vay vốn, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng. Để tránh được rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng trong khâu phân tích đánh giá tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng – khâu quyết định xem doanh nghiệp có đủ điều kiện vay vốn của Ngân hàng hay không .

Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội, em chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo &PTNT Nam Hà Nội

Kết cấu của chuyên đề thực tập như sau:

Chương I: Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn.

Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội.

Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội.

 

 

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1152 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo &PTNT Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Ngân hàng là một bộ phận của tổ chức tài chính trung gianvới nhiệm vụ là kênh chuyển vốn, dẫn vốn trong nền kinh tế. Trong đó, Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển . Ngân hàng giúp vốn chu chuyển một cách trôi chảy, điều hoà giữa cung , cầu về vốn. Do đó, mối quan hệ giữa Ngân hàng và các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, với khách hàng rất gắn bó, có tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau. Từ khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì cơ cấu, tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng có sự thay đổi tương ứng và phù hợp. Bắt đầu từ quyết định số 218/QĐ-CP của Chính phủ năm 1987 cho đến Nghị định số 53/NĐ- CP năm 1988 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp và chuyển sang hoạt động hạch toán kinh doanh. Các ngân hàng được tự chủ tài chính, chủ động huy động vốn và cho vay theo khuôn khổ pháp luật. Do đó, đã nâmg cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế, nhu cầu thiếu và thừa vốn trong nền kinh tế được đáp ứng nhanh chóng, kịp thời với chi phí hợp lý, sức cạnh tranh của Ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung ngày càng mạnh hơn, các quan hệ tài chính được lành mạnh hoá. Như vậy, quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng (đặc biệt là các doanh nghiệp) ngày càng gắn bó, tương tác lẫn nhau. Doanh nghiệp không trả được nợ đến hạn, doanh thu của Ngân hàng giảm , ảnh hưởng đến việc cho doanh nghiệp khác vay vốn, ảnh hưởng đến sự tồn tại của Ngân hàng. Để tránh được rủi ro tín dụng này, trong quá trình thẩm định cho vay, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng trong khâu phân tích đánh giá tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng – khâu quyết định xem doanh nghiệp có đủ điều kiện vay vốn của Ngân hàng hay không . Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội, em chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo &PTNT Nam Hà Nội Kết cấu của chuyên đề thực tập như sau: Chương I: Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn. Chương II: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội. Chương I. lý luận chung về tín dụng ngân hàng và chất lượng phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn tổng quan về tín dụng ngân hàng 1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại: *Khái niệm: Thuật ngữ “ Ngân hàng” đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử, gần 3500 năm trước Công nguyên trở về trước, từ khi xuất hiện xã hội loài người, chính nhu cầu phát triển của xã hội và nền kinh tế đã thúc đẩy hoạt động Ngân hàng không ngừng phát triển từ mức thô sơ cho đến đa dạng và phức tạp như ngày nay. Mỗi thời kỳ phát triển của xã hội loài ngưòi, hoạt động của Ngân hàng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, mỗi dân tộc khác nhau, luật pháp, tập quán khác nhau dẫn đến một cách nhìn nhận và quan niệm về Ngân hàng thương mại là khác nhau. Do đó, không có một định nghĩa chung cho các quốc gia về Ngân hàng thưong mại. Riêng ở Việt Nam, theo tinh thần Luật tổ chức tín dụng của Việt Nam: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi , sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, dù theo kiểu cách nào thì chắc chắn: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với hai nội dung chính: nhận tiền gửi và cho vay. Đây cũng là điểm đặc trưng để phân biệt Ngân hàng thương mại với các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác . Hoạt động của Ngân hàng bao gồm ba lĩnh vực: nghiệp vụ nợ( huy động vốn ), nghiệp vụ có ( cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung gian ( dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ, vật quý giá...). Ba loại nghiệp vụ này có mối quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho Ngân hàng. Có huy động được vốn thì mới có nguồn vốn cho vay; chỉ cho vay có hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào; đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt nghiệp vụ môi giới trung gian; ngược lại, nghiệp vụ môi giới trung gian tốt sẽ tạo việc thu hút nguồn vốn huy động vào. Do đó cho vay thế nào để có hiệu quả nhất đối với người đi vay và với Ngân hàng cho vay là một trong những vấn đề cơ bản nhất của Ngân hàng hiện nay, đó luôn là vấn đề làm đau đầu các cán bộ Ngân hàng trong việc tìm ra phương pháp giải quyết cho mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi quốc gia khác nhau, mỗi thời kỳ khác nhau. 1.1.2 Tín dụng Ngân hàng: Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thưong mại để tạo ra lợi nhuận. Kinh tế càng phát triển, lực lượng cho vay của các Ngân hàng thương mại càng tăng nhanh, loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. Hiện nay, ở những nước đang phát triển, khi một Ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là sẽ cho ai vay và cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, vấn đề đặt ra ở những nước này là lợi tức có cao không và an toàn không. Cho vay của Ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng của Ngân hàng thương mại, là một lĩnh vực phức tạp và thường xuyên phải cập nhật theo những biến chuyển của môi trường kinh tế. Do đó, tìm hiểu thêm về lĩnh vực này, ta cần biết thêm khái niệm về tín dụng. Danh từ tín dụng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp, như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Nhà kinh tế Pháp, ông Luis Baundin, đã định nghĩa tín dụng như là “ một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”, như vậy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra nên cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau, hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng. Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai, chẳng hạn hai người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta thấy có một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và ngày nay, khi nói tới tín dụng, người ta nghĩ ngay tới các Ngân hàng. Tóm lại, tín dụng Ngân hàng có thể hiểu cơ bản là việc Ngân hàng tin tưởng nhường quyền sử dụng vốn cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định và kết thúc thời gian đó, Ngân hàng sẽ thu về cả vốn lẫn lãi. Đặc trưng của tín dụng là lòng tin, tính thời hạn và tính hoàn trả. Chính nhờ hoạt động này mà Ngân hàng trang trải được mọi chi phí phát sinh và là nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng. Tuy nhiên, song hành với lợi nhuận thu được là độ rủi ro cao. Vì vậy, chất lượng của hoạt động là nhân tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Để tăng trưởng và phát triển, quy mô của hoạt động cho vay mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là chất lượng của hoạt động này. 1.2 Vai trò của công tác phân tích tài chính khi cho vay của Ngân hàng thương mại: Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ, chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi được thành lập và đi vào hoạt động đều phải thành lập sổ sách kế toán và các loại sổ sách khác. Những sổ sách này phản ánh tình hình hoạt động mọi mặt của doanh nghiệp, vấn đề là người sử dụng sổ sách đó phải khai thác thế nào, ở góc độ nào, khía cạnh nào để phục vụ cho hoạt động, công tác, cương vị của mỗi người. Tức là có phân tích tài chính doanh nghiệp mới thấy hết vai trò ý nghĩa của nó. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn lĩnh vực, nghành nghề kinh doanh, mỗi doanh nghiệp khi kinh doanh đều có quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau như: nhà cung cấp, nhà tiêu thụ, Ngân hàng, Nhà nước, các nhà quản lý, những người lao động. Do đó, mỗi đối tượng đó sẽ quan tâm tới tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, sẽ tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của một công ty. Mặc dù vậy, họ vẫn có cái chung là thường sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản là giống nhau để phân tích báo cáo tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ, bởi vì có lợi nhuận thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển, khả năng trả nợ tốt thì doanh nghiệp mới có khả năng cạnh tranh trên thương trường ở cả đầu ra và đầu vào, tức là phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp trong nghĩa vụ và quyền hạn của mình, họ cần quan tâm tới đảm bảo đủ nguồn tài chính cho doanh nghiệp bằng cách huy động mọi nguồn vốn bên trong và bên ngoài, đảm bảo cho tiền tệ đuợc đầu tư vào sản xuất kinh doanh một cách hợp lý nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất. Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ, họ phải quyết định xem sắp tới có cho khách hàng được mua chịu hàng, thanh toán chậm hay không, bởi vì nếu khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, tiềm lực tài chính của doanh nghiệp không đủ mạnh thì dẫn đến nợ thương mại của doanh nghiệp đối với doanh nghiệp khác lên cao thì không có khả năng trả nợ. Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như: sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn... Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, các cơ quan tài chính khác như thuế, thống kê, chủ quản, các nhà phân tích tài chính, những người lao động...Những nhóm người này có nhu cầu thông tin về cơ bản giống như các chủ Ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp...bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ. Đặc biệt với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp . Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong quy trình thẩm định cho vay của Ngân hàng. Mục đích của công tác phân tích này giúp Ngân hàng có thể nhìn nhận một cách lôgic tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và xu hướng phát triển trong tương lai. Qua phân tích tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng trả lời các câu hỏi: - Doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không? Khả năng tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp đến mức độ nào? Mức doanh thu doanh nghiệp thực hiện so với số đầu tư về các tài sản lưu động và cố định của nó? Doanh nghiệp đạt được mức lợi nhuận là bao nhiêu và mức lợi nhuận đó có thể giảm bao nhiêu trước khả năng không thể đáp ứng được các chi phí cố định? Nếu doanh nghiệp thua lỗ, các tài sản sẽ mất giá bao nhiêu so với con số trong bảng tổng kết tài sản trước khi các chủ nợ được Bảo hiểm chấp nhận thiệt hại? Bên cạnh đó, thông qua việc phân tích tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng có thể tư vấn kịp thời cho các doanh nghiệp về quyết định tài chính nhằm tháo gỡ khó khăn, ổn định và phát triển doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá tài chính trong doanh nghiệp trong Ngân hàng góp phần kiểm tra lại tính trung thực của kiểm tra tài chính nội bộ. Từ đó, chủ doanh nghiệp có cái nhìn khách quan hơn về nội lực doanh nghiệp mình. Như vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp có thể đánh giá được rủi ro của doanh nghiệp, đặc biệt là rủi ro về khả năng thanh toán ở hiện tại và tương lai, và quyết định cho doanh nghiệp có nên vay không, mức độ tủi ro mà Ngân hàng gánh chịu khi chấp nhận cho doanh nghiệp vay , cho vay với số lượng là bao nhiêu. Có thể đưa ra những nhận định tinh tế hơn như mục đích vay vốn của doanh nghiệp có thực sự trung thực không( thông qua phân tích nhu cầu vốn và khả năng vốn hiện tại của doanh nghiệp). Phân tích tài chính không chỉ giúp Ngân hàng đưa ra những quyết định đúng đắn khi tiến hành xét duyệt các khoản cho vay mà còn trong cả quá trình cho vay. Trong thời hạn cho vay, doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ cung cấp cho Ngân hàng các báo cáo tài chính, các thông tin về tình hình tài chính của mình, qua đó, ngân hàng có thể phát hiện những dấu hiệu xấu về tình hình tài chính của doanh nghiệp đó và thu hồi các khoản vay trước hạn. Ngoài ra còn giúp Ngân hàng xây dựng kế hoạch cho vay, trên cơ sở đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh và tài chính của mỗi doanh nghiệp, Ngân hàng có thể đánh giá nhu cầu vốn ngắn hạn, trung và dài hạn... Từ đó có chiến lược huy động vốn phù hợp, tránh lãng phí và đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời, Ngân hàng có thể biết được xu hướng phát triển của từng giai đoạn, từng lĩnh vực kinh tế, lập kế hoạch cung cấp tín dụng hướng vào lĩnh vực có khả năng phát triển mạnh trong tương lai. Xây dựng kế hoạch tín dụng phù hợp sẽ giúp Ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay, đem lại lợi nhuận cao cũng như góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. Nội dung công tác phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn Các thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn: Các báo cáo tài chính phản ánh một cách hệ thống tình hình tài sản của đơn vị tại những thời điểm , kết quả hoạt động kinh doanh và tinh hình sử dụng vốn trong những thời kỳ nhất định. Đồng thời được giải trình, giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết được thực trạng tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị để ra các quyết định phù hợp. * Bảng cân đối kế toán : Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, mô tả thực trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó. Kết cấu của bảng được chia làm hai phần: phần tài sản phản ánh toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyên sở hữu và sử dụng của doanh nghiệp. Bên nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối tài sản là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được tổng quát tình hình tài chính, khả năng thanh toán, cơ cấu vốn và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp. * Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tổng hợp cho biết tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại những thời điểm nhất định. Nó cung cấp các thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về sử dụng vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, nó cũng giúp nhà phân tích so sánh được doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Ngoài ra, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp đó. *Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp các thông tin giúp người sử dụng đánh giá khả năng tạo tiền của doanh nghiệp, đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, phân tích mối quan hệ giữa lợi tức dòng và lưu chuyển tiền tệ dòng, dự đoán trong tương lai lượng tiền mang lại từ các hoạt động của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ gồm 3 phần: Lưu chuyển từ hoạt động sản xuất kinh doanh Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính Có hai phương pháp lưu chuyển tiền tệ: phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp, mỗi phương pháp có ưu điểm riêng. * Thuyết minh báo cáo tài chính: Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống có trong hệ thống các báo cáo tài chính đồng thời, giải thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích rõ ràng, cụ thể như các thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp , chế độ kế toán áp dụng, tình hình và lý do biến động một số tài sản và nguồn vốn quan trọng... * Các thông tin khác liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. 1.3.2. Các phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính: Phương pháp tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng trên thực tế, người ta thường sử dụng phương pháp so sánh và phương pháp tỉ lệ. *Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp so sánh cần đảm bảo tính có thể so sánh được của các chỉ tiêu tài chính ( thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chính xác và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc thời gian và không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh gồm: So sánh giữa số thực hiện kỳ này và số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp. So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu của nghành, của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình đang phân tích tốt hay xấu, được hay chưa được. So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số lượng tuyệt đối và số tương đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp. * Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Sự biến đổi các tỷ lệ cố nhiên là sự biến đổi các đại lượng tài chính . Về nguyên tắc,phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính tài chính doanh nghiệp, trên cơ sở sánh các tỷ lệ doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính đựơc phân thành các nhóm đặc trưng , phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, nguời phân tích lựa chọn các nhóm chỉ tiêu khác nhau để phục vụ mục tiêu phân tích tài chính của mình. 1.3.3. Nội dung công tác phân tích tài chính đối với doanh nghiệp vay vốn : Khi doanh nghiệp vay vốn, điều mà ngân hàng quan tâm nhất là khả năng thanh toán và trả nợ của khách hàng( DN) vay vốn. Do đó, khi phân tích tài chính, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới việc đánh giá rủi ro thanh toán của doanh nghiệp. Tức là phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, cơ cấu nợ, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng như trạng thái tài chính của doanh nghiệp nhằm đánh giá rủi ro trong tương lai. Do đó Ngân hàng đặc biệt quan tâm tới việc phân tích khái quát một số chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng trong báo cáo kết quả kinh doanh . 1.3.3.1. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trong báo cáo kết quả kinh doanh đối với doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng: Mục tiêu của phân tích này là xác định, phân tích mối liên hệ và đặc điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, đồng thời so sánh chúng qua một số niên độ kế toán liên tiếp và với số liệu trung bình của nghành (nếu có) với các doanh nghiệp khác. Từ đó mà đánh giá được một phần của xu hướng giai đoạn tiếp theo của doanh nghiệp, có thể giúp Ngân hàng tránh đựơc những rủi ro không có khả năng thanh toán của doanh nghiệp do xu hướng hoạt động kinh doanh không tốt của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu đã được chuẩn hoá trong mẫu bảng phân tích như sau: Chỉ tiêu Năm N-1 Năm N Năm N/ Năm N-1 Lưọng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng Lượng Tỷ trọng 1.Doanh thu thuần 2.Giá vốn hàng bán Trong đó:KHTSCĐ 3.Lãi gộp 4.Chi phí bán hàng và quản lý Trong đó:- KHTSCĐ -Lãi vay 5. Lãi trước thuế và lợi tức vay 6.Lãi trước thuế -Thuế( TNDN) 7.Lãi sau thuế 8.Lãi không chia *Nhóm chỉ tiêu về tình hình tài chính và khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu mà không riêng gì Ngân hàng mà rất nhiều đối tượng khác quan tâm tới, bất kỳ đối tượng nào có liên quan đến doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các cán bộ công nhân viên... Phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản nợ trước đây rất quan trọng vì nó phản ánh được phần nào mức độ tín nhiệm hay sự sẵn sàng chi trả của doanh nghiệp trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ và khả năng tài chính của nó. Một doanh nghiệp có lịch sử thanh toán lành mạnh, sòng phẳng sẽ an toàn hơn một doanh nghiệp luôn có nợ khó đòi hay quá hạn. Nếu có nợ khó đòi, nợ quá hạn thì nguyên nhân khách quan hay chủ quan, bất khả kháng hay không. Chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn: Hệ số thanh toán ngắn hạn = Tài sản lưu động /Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp bằng cách chuyển đổi những tài sản lưu động thành tiền trong thời kỳ phù hợp với thời kỳ trả nợ. Nợ đến hạn bao gồm các khoản trung và dài hạn. Tài sản lưu động bao gồm tiền, chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ. Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn dưới 1 năm. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao hay trong ngắn hạn hạn tài sản lưu động có thể chuyển đổi để trả các khoản nợ quá hạn. Về mặt lý thuyết, chỉ tiêu này bắt buộc lớn hơn 1. Nếu nhỏ hơn 1 chứng tỏ vốn lưu động ròng của doanh nghiệp là âm và có nghĩa là doanh nghiệp đã dùng nợ ngắn hạn dể tài trợ một phần cho tài sản cố định. Chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh: Vốn bằng tiền + Các khoản phải thu Hệ số thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này có ưu điểm hơn chỉ tiêu ở trên là đã loại được sự ảnh hưởng của hàng hoá tồn kho ( phần dự trữ) đến khả năng thanh toán sao cho nhanh hơn của tài sản lưu động, bởi vì, nếu cơ cấu hàng hóa tồn kho trong tổng tài sản lưu động lớn thì sẽ làm cho hệ số thanh toán ngắn hạn lớn nhưng không ảnh hưởng gì đến hệ số thanh toán nhanh, vì thanh toán nhanh cần ít thời gian hơn thanh toán ngắn hạn, thanh toán ngắn hạn cần có việc chuyển đổi của hàng hoá tồn kho mà thời gian của việc chuyển đổi này nhanh hay chậm lại còn tuỳ thuộc vào từng nghành nghề, hàng hoá và lĩnh vực kinh doanh. Chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời: Vốn bằng tiền Hệ số thanh toán tức thời = Nợ đến hạn Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán ngay tức thì của doanh nghiệp bằng nguồn vốn bằng tiền, không bị chi phối bởi thời gian chuyển đổi của hàng hoá tồn kho và các khoản phải thu. Hệ số này lớn hơn 0,5 là dấu hiệu tốt. Nếu quá lớn tức là vốn bằng tiền của doanh nghiệp để lại quá lớn, chi phí cho việc lưu trữ, ghi chép, kiểm đếm, phân loại khá lớn, mặt khác lại không sinh lợi cho nên cũng không phải là càng lớn càng tốt. Cũng như vậy với hệ số thanh toán ngắn hạn và hệ số thanh toán nhanh, không hẳn là càng cao càng tốt, chỉ vừa hợp lý sao cho tương ứng với các khoản nợ ngắn hạn để không gây ra hiện tượng dư thừa nguồn lực, hiệu quả tài sản lưu động kém hay tài sản lưu động quay vòng kém là không sinh lợi. *Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính: Tổng nợ phải trả Hệ số nợ tổng tài sản = Tổng tài sản Tổng nợ phải trả Hệ số nợ vốn cổ phần = Tổng vốn chủ sở hữu Nhóm chỉ tiêu này để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với nợ vay. Chủ nợ ưa thích một hệ số nợ vừa phải, hệ số nợ càng thấp, hệ số an toàn càng cao, món nợ của họ càng được đảm bảo và họ có cơ sở để tin vào sự đáo nợ đúng hạn của con nợ. Khi hệ số nợ cao tức là chủ doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trên tổng số vốn, thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu chuyển sang cho chủ nợ gánh chịu, nhưng bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ nợ vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên,vấn đề giữa vốn vay và vốn góp với cơ cấu như thế nào còn rất nhiều phức tạp, nó còn ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100521.doc
Tài liệu liên quan