Mỗi quốc gia phát triển ổn định không thể tách rời hoạt động thương mại quốc tế. Giữa các quốc gia có sự trao đổi của thương mại quốc tế thông qua hành vi mua bán, hay là hành vi kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán này phản ánh mối quan hệ lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia.
Thương mại quốc tế mang tính chất sống còn cho mỗi quốc gia vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, phát huy được lợi thế so sánh của một quốc gia so với các nước khác. Thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội một cách hợp lý và tạo nên sự chuyên môn hoá trong nền sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả của nhiều ngành.
Lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu là một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất xã hội, nó làm thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm và làm thay đổi hàng hóa lưu thông giữa các quốc gia. Bởi vậy, quan hệ mua bán quốc tế đã xuất hiện và trở nên quan trọng ở Việt Nam. Từ một nước nhập siêu mà chủ yếu qua con đường viện trợ thì nay đã vươn lên thành nước xuất khẩu và tiến tới cân bằng các cân thanh toán xuất nhập khẩu.
Trong sự lớn mạnh của lĩnh vực xuất nhập khẩu của đất nước, các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu đóng vai trò rất quan trọng vì đó là các doanh nghiệp cấu thành nên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh đó Công ty Dịch vụ Thương mại số I đã và sẽ góp phần không nhỏ trong quá trình mở rộng và tăng cường hiệu quả kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, cùng với sư giúp đỡ hướng dẫn của Thầy giáo, PGS,TS Hoàng Minh Đường và các cán bộ phòng nghiệp vụ 2, em đã chọn đề tài:
“giai phap hoan thien hoat dong nhap khau hang hoa cua cong ty dich vu thuong mai so i (trasco)”
làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận của hoạt động nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường.
Phần II: Phân tích thực trạng nhập khẩu hàng hóa của Công ty Dịch vụ Thương mại số I.
Phần III: Những giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Công ty Dịch vụ Thương mại số I trong những năm tới.
Do trình độ kinh nghiệm có hạn, thời gian thực tập không nhiều, đồng thời đây cũng là vấn đề phức tạp nên chuyên đề này còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ ở Công ty và đóng góp của những người có tâm huyết với vấn đề xuất nhập khẩu hàng dệt may và nguyên vật liệu chính cho sản xuất hàng dệt may.
Em xin chân thành cảm ơn PGS, TS Hoàng Minh Đường và các cô chú phòng Nghiệp vụ II, Công ty Dịch vụ Thương mại số I đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
70 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1091 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa của công ty dịch vụ thương mại số 1 (Trasco), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
lời mở đầu
Mỗi quốc gia phát triển ổn định không thể tách rời hoạt động thương mại quốc tế. Giữa các quốc gia có sự trao đổi của thương mại quốc tế thông qua hành vi mua bán, hay là hành vi kinh doanh xuất nhập khẩu, hành vi mua bán này phản ánh mối quan hệ lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia.
Thương mại quốc tế mang tính chất sống còn cho mỗi quốc gia vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, phát huy được lợi thế so sánh của một quốc gia so với các nước khác. Thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội một cách hợp lý và tạo nên sự chuyên môn hoá trong nền sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả của nhiều ngành.
Lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu là một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất xã hội, nó làm thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm và làm thay đổi hàng hóa lưu thông giữa các quốc gia. Bởi vậy, quan hệ mua bán quốc tế đã xuất hiện và trở nên quan trọng ở Việt Nam. Từ một nước nhập siêu mà chủ yếu qua con đường viện trợ thì nay đã vươn lên thành nước xuất khẩu và tiến tới cân bằng các cân thanh toán xuất nhập khẩu.
Trong sự lớn mạnh của lĩnh vực xuất nhập khẩu của đất nước, các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu đóng vai trò rất quan trọng vì đó là các doanh nghiệp cấu thành nên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh đó Công ty Dịch vụ Thương mại số I đã và sẽ góp phần không nhỏ trong quá trình mở rộng và tăng cường hiệu quả kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, cùng với sư giúp đỡ hướng dẫn của Thầy giáo, PGS,TS Hoàng Minh Đường và các cán bộ phòng nghiệp vụ 2, em đã chọn đề tài:
“giai phap hoan thien hoat dong nhap khau hang hoa cua cong ty dich vu thuong mai so i (trasco)”
làm chuyên đề tốt nghiệp. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận của hoạt động nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường.
Phần II: Phân tích thực trạng nhập khẩu hàng hóa của Công ty Dịch vụ Thương mại số I.
Phần III: Những giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa của Công ty Dịch vụ Thương mại số I trong những năm tới.
Do trình độ kinh nghiệm có hạn, thời gian thực tập không nhiều, đồng thời đây cũng là vấn đề phức tạp nên chuyên đề này còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ ở Công ty và đóng góp của những người có tâm huyết với vấn đề xuất nhập khẩu hàng dệt may và nguyên vật liệu chính cho sản xuất hàng dệt may.
Em xin chân thành cảm ơn PGS, TS Hoàng Minh Đường và các cô chú phòng Nghiệp vụ II, Công ty Dịch vụ Thương mại số I đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Phần I
Cơ sở lý luận của hoạt động nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường
I. Vai trò của hoạt động nhập khẩu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm nhập khẩu.
Nhập khẩu là khâu cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế. Có thể hiểu nhập khẩu là sự mua hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc tái xuất khẩu nhằm thu lợi nhuận.
Kinh doanh nhập khẩu là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các chủ thể thuộc các quốc gia khác nhau thông qua hành vi mua nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới, nó cũng quyết định sự sống còn của một nền kinh tế.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu hàng hóa.
Hoạt động nhập khẩu nhìn chung có những vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hóa nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, nghĩa là làm tăng mức sống của người dân. Đồng thời nhập khẩu làm tăng đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, cho phép thoả mãn nhu cầu một cách tốt hơn.
Thứ hai, nhập khẩu góp phần vào việc đưa các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại của thế giới vào trong nước. Thông qua nhập khẩu các công nghiệp hiện đại. Các sáng kiến kỹ thuật sẽ được chuyển giao giữa các quốc gia, do đó nó tạo ra sự phát triển vượt bậc của các nhà sản xuất trong nước. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước kém phát triển.
Thứ ba, nhập khẩu xóa bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt đề nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp. Nhập khẩu các hàng hoá dịch vụ vào trong nước, nghĩa là làm cho nguồn cung cấp đa dạng hơn, do đó bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu, tình trạng độc quyền phải xoá bỏ.
Thứ tư, nhập khẩu góp phần đẩy mạnh xuất khẩu. Thông qua nhập khẩu các máy móc thiệt bị nguyên vật liệu sẽ được nhập về, những yếu tố này sẽ nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm của xuất khẩu. Trên góc độ này, nhập khẩu đã góp phần đáng kể vào việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ năm, nhập khẩu góp phần làm nâng cao hiệu qủa của nền kinh tế trong nước. Như chúng ta đã biết, nhập khẩu nhất thiết dẫn đến cạnh tranh trong nước và cạnh tranh sẽ là yếu tố quan trọng để thanh lọc các chủ thể kinh doanh kém hiệu qủa, đồng thời quá trình áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được thường xuyên hơn và có ý thức hơn.
Thứ sáu, nhập khẩu đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của sản xuất và tiêu dùng, đặc biệt là đối với các hàng hóa quý hiếm hoặc hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được. Thông qua nhập khẩu, sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu sẽ dần dần được khắc phục. Nghĩa là nó góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra một cách thường xuyên, ổn định.
Thứ bảy, nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được các lợi thế so sánh của quốc gia trên cơ sở chuyên môn hóa.
* Đối với Việt Nam hiện nay, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội khắc phục những hậu quả của chiến tranh, các chiến lược quan liêu bao cấp thì ngoài những vai trò trên, nhập khẩu còn có những vai trò lớn như:
+ Nhập khẩu có tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh vì hoạt động nhập khẩu cung cấp cho nền kinh tế 60%-100% nguyên nhiên vật liệu chính yếu, mặt khác nhập khẩu đem lại cho đất nước những công nghệ ở nhiều trình độ khác nhau. Phù hợp với từng vùng, từng địa phương và mỗi quy mô hay khả năng sản xuất nhất định, nhờ đó trình độ sản xuất được nâng cao, năng suất lao động tăng lên đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới.
+ Nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá, thúc đầy cơ giới hoá nông nghiệp, tác động đẩy mạnh thủy lợi hóa, sinh học hoá, phục vụ phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Thúc đẩy sự ra đời của công nghiệp lắp ráp điện tử, công nghiệp may mặc, phục vụ phát triển đa dạng các ngành nghề, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có gía trị cao.
+ Hoạt động nhập khẩu có vai trò trong việc cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân, bởi thông qua nhập khẩu sản xuất trong nước mới đủ nguyên liệu vật liệu, thiết bị máy móc hoạt động nên công nhân mới có công ăn việc làm, có thu nhập. Mặt khác nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhập sách báo khoa học và văn hóa sẽ góp phần nâng cao dân trí cho nhân dân.
Như vậy hoạt động nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và có ý nghĩa quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu với mục đích thay thế những hàng hóa mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ. Hai là nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế đất nước. Trong đó cân đối trực tiếp các yếu tố của quá trình sản xuất (chủ yếu là đối tượng lao động và tư liệu lao động). Đó chính là vai trò quan trọng nhất của nhập khẩu.
3. Các hình thức hoạt động nhập khẩu hàng hóa.
Hoạt động xuât nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng thường chỉ tiến hành ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp. Do tác động của điều kiện kinh doanh, môi trường thực tế, sự sáng tạo của người kinh doanh mà đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu đa dạng khác nhau. Dưới đây là một vài hình thức thông dụng đang được áp dụng trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước Việt Nam hiện nay như sau:
a. Nhập khẩu uỷ thác:
* Khái niệm nhập khẩu uỷ thác:
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu phải thông qua bên trung gian mà bên trung gian là người có quyền nhập khẩu trực tiếp để giao dịch ký kết với nước ngoài trên cơ sở hợp đồng uỷ thác.
Hợp đồng nhập khẩu uỷ thác là hợp đồng hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoài tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại hàng hóa nhưng lại không có quyền tham gia các hoạt động nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực tiếp và tiến hành nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa theo yêu câù của bên uỷ thác. Bên nhận uỷ thác sẽ được hưởng một phần thù lao được gọi là phí uỷ thác.
* Nhập khẩu uỷ thác có những đặc điểm sau:
-Bên nhận uỷ thác (doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu):
Không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường do không phải tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu mà chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất hay sự vi phạm hợp đồng.
Khi nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác được hưởng một phần thủ lao gọi là chi phí uỷ thác trị giá từ 0.5% đến 1.5% tổng gía trị hợp đồng và phải nộp thuế thu nhập trên nguồn thu này, khi tiến hành nhập khẩu doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không được tính vào doanh số và nộp thuế giá trị gia tăng (VAT) trước đó là thuế doanh thu.
b. Nhập khẩu trực tiếp.
* Khái niệm nhập khẩu trực tiếp.
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp, trực tiếp nghiên cứu thị trường, tính toán chi phí, ký kết và thực hiện hợp đồng, chịu trách nhiệm về lỗ, lãi đảm bảo đúng phương hướng chính xác luật pháp quốc gia cũng như quốc tế.
* Hoạt động nhập khẩu trực tiếp có những đặc điểm cơ bản như sau:
+ Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi mặt hoạt động, phải tự nghiên cứu thị trường, chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận lưu kho, quảng cáo, chi phí tiêu thụ hàng hóa và chịu thuế GTGT.
+ Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu sẽ được tính doanh số và doanh số đó phải chịu thuế GTGT.
+ Thông thường doanh nghiệp chỉ cần một hợp đồng với bên nước ngoài (bên nhập khẩu) còn hợp đồng bán hàng trong nước thì có thể lập khi hàng về hay khi tìm được nơi tiêu thụ.
c. Nhập khẩu liên doanh
* Khái niệm nhập khẩu liên doanh:
Nhập khẩu liên doanh là hình thức nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện trong đó được ít nhất một doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp nhằm cùng phối hợp kỹ năng, cùng giao dịch và để ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này, phát triển theo hướng có lợi cho cả hai bên cùng hưởng lợi nhuận và cùng chịu rủi ro.
* Hoạt động nhập khẩu liên doanh có những đặc điểm sau:
+ Doanh nghiệp nhập khẩu chịu rủi ro (nếu có) sẽ ít hơn bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, đồng thời quyền hạn và trách nhiệm của hai bên, cũng tỷ lệ theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ vốn góp, lãi và lỗ hai bên phân chia theo thoả thuận dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác.
+ Doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính kim ngạch XNK nhưng đến khi tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế GTGT trên doanh số đó.
+ Doanh nghiệp XNK trực tiếp trong liên doanh phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng liên doanh vơi các doanh nghiệp khác nhưng không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước.
d. Nhập khẩu đối lưu
* Khái niệm nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu.
Nó là một hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Thanh toán trong trường hợp này không phải dùng tiền mà bằng chính hàng hóa. ở đây mục đích của nhập khẩu không những chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhập khẩu được hàng hóa để thu lãi.
* Họat động nhập khẩu đối lưu có những đăc điểm sau:
+ Hoạt động này mang lại lợi ích lớn cho cả hai bên bởi cùng một hợp đồng mà có thể cung một lúc xuất khẩu và nhập khẩu, thu lãi từ cả hai hoạt động.
+ Hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu tương đương nhau với giá trị, mức độ qúy hiếm và cân bằng về giá cả.
+ Bạn hàng xuất khẩu cũng chính là bạn hàng nhập khẩu.
+ Doanh nghiệp XNK trực tiếp tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, tính doanh số tiêu thụ trên cả hàng nhập và hàng xuất.
+ Trong quá trình buôn bán, ký kết hợp đồng, thanh quyết toán phải dùng tiền làm vật ngang giá chung.
e. Nhập khẩu tái xuất.
* Khái niệm nhập khẩu tái xuất là một hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào trong nước nhưng không phải để tiêu dùng mà để xuất khẩu sang một nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không qua chế biến lại ở nước tái xuất khẩu.
* Hoạt động nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm sau:
+ Doanh nghiệp XNK ở nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, đàm bảo sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra.
+ Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu và không phải chịu thuế XNK.
+ Để đảm bảo thanh toán hợp đồng tái xuất thì các nhà nhập khẩu tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C).
+ Hàng hóa không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ ba nhưng tiền trả phải luôn do người tái xuất thu từ bên nhập khẩu trả cho nước xuất khẩu. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp tái xuất có một hệ thống thông tin và có mối quan hệ rộng giữa các bạn hàng.
II. Nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hóa.
Hoạt động nhập khẩu hàng hóa không phải là một hành động đơn lẻ mà là một qúa trình bao gồm nhiều khâu có tính chất nghiệp vụ, bắt đầu từ khâu nghiên cứu tiếp cận thị trường, lựa chọn phương thức giao dịch cho đến khâu tiếp nhận hàng hóa tại cảng nước mình. Quá trình nhập khẩu hàng hóa phải được thực hiện một cách hệ thống và hợp lý, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
1. Nghiên cứu thị trường
Thị trường là khâu tất yếu của khâu tái sản xuất hàng hóa, ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có thị trường. Thị trường đối với doanh nghiệp là điều kiện sống còn để sản xuất và kinh doanh. Thị trường theo nghĩa cổ điển là nơi diễn ra các mối quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa. Theo nghĩa này thị trường được thu hẹp ở ( cái chợ ). Vì ta có thể hình dung được thị trường cả về không gian, thời gian, dung lượng .... Còn theo nghĩa hiện đại, thị trường là một qúa trình trong đó người mua, người bán tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa mua bán. Vậy thị trường theo nghĩa rộng được hiểu là tổng thể các mối quan hệ về lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và các dịch vụ.
Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên giới mỗi nước. Thị trường quốc tế hết sức phức tạp và nhiều biến động. Mỗi nước, mỗi thị trường lại có những đặc điểm khác nhau về quy mô, về phong tục, tập quán, văn hoá giáo dục, thị hiếu và luật pháp. Muốn hoạt động xuất nhập khẩu có hiệu quả trên thương trường quốc tế cần phải nghiên cứu tìm hiểu thị trường một cách kỹ lưỡng, thu thập xử lý thông tin cần thiết và nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh để từ đó đưa ra phương án kinh doanh tốt nhất và thông qua hoạt động nghiên cứu thị trường ta mới có thể trả lời các câu hỏi:
Kinh doanh nhập khẩu hàng hoá gì ?
Kinh doanh với ai ?
Kinh doanh ở đâu ? vào thời điểm nào ?
Kinh doanh với số lượng bao nhiêu ?
Giá cả, lợi nhuận như thế nào ?
Khác với kinh doanh hàng hóa trong nước, nghiên cứu thị trường đối với hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu phải tiến hành nghiên cứu đồng thời cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.
a. Nghiên cứu thị trường trong nước:
Việc nghiên cứu thị trường trong nước giúp cho chủ thể kinh doanh hàng nhập khẩu lựa chọn được mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Thông thường việc nghiên cứu thị trường trong nước thường tập trung vào các nội dung sau:
- Nghiên cứu nhu cầu của thị trường:
Nhu cầu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định tới hoạt động kinh doanh trên thị trường. Mọi doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu nhu cầu rồi mới tổ chức quá trình kinh doanh để thoả mãn các nhu cầu đó. Đối với hoạt động nghiên cứu thị trường trong nước kinh doanh hàng nhập khẩu thì nghiến cứu nhu cầu thị trường là nội dung quan trọng nhất, nó quyết định tới hoạt động kinh doanh sau này. Nghiên cứu nhu cầu thị trường phải căn cứ vào cả sản xuất và tiêu dùng, về quy cách từng loại, kích cỡ, thị hiếu, tập quán tiêu dùng. Đồng thời phải dự báo được nhu cầu trong thời gian tới.
Tóm lại qua nghiên cứu thị trường phải chỉ ra được thị trường đang cần loại hàng gì? Với số lượng bao nhiêu ? Giá cả ra sao ? Từ đó có cơ sở để tiến hành các bước tiếp theo.
- Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu:
Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không những phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường mà còn phải dựa trên các yếu tố như:
+ Tình hình mặt hàng đó như thế nào hay khả năng sản xuất và tiêu dùng trong nước. Mỗi mặt hàng đều có những đặc điểm riêng, nó thể hiện bằng giá trị, công dụng, phẩm chất ... tương ứng với đặc điểm đó ta nghiên cứu khả năng của từng đối tượng, thời gian tiêu dùng. Đồng thời phải xác định được khả năng cung ứng các mặt hàng đó với thị trường trong nước. Rồi từ đó mới quyết định xem có nên kinh doanh hay không.
+ Chu kỳ sống của sản phẩm: Như chúng ta đã biết, mỗi hàng hoá lại có một chu kỳ sống riêng. Xác định xem hàng hóa đang ở giai đoạn nào là một việc làm rất cần thiết. Một sản phẩm đang ở giai đoạn bão hoà ở thị trường này chưa chắc đã thống lĩnh ở thị trường khác nếu như nó đang ở giai đoạn giới thiệu ở thị trường đó. Thực tế đã chứng minh rất nhiều trường hợp một sản phẩm đang bán rất chạy ở thị trường này được giới thiệu vào một thị trường khác lại gặp ngay thất bại.
+ Chính sách của nhà nước đối với mặt hàng kinh doanh cần phải xác định xem mặt hàng doanh nghiệp định kinh doanh có nằm trong danh mục mặt hàng cấm nhập hoặc mặt hàng khuyến khích nhập khẩu hay không ? Sự khuyến khích hay hạn chế nhập khẩu sẽ được thể thiện qua hạn ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu đánh vào từng mặt hàng. Điều này sẽ tạo ra những thuận lợi hoặc khó khăn đối với doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh sau này.
- Nghiên cứu giá cả trong nước
Doanh nghiệp phải xác định xem giá cả mặt hàng doanh nghiệp sẽ nhập khẩu hiện đang được thị trường trong nước chấp nhận vơí mức giá bao nhiêu. Đối thủ cạnh tranh đang cung ứng với mức giá thế nào. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp thông qua hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Giá cả sẽ bị tác động bởi rất nhiều yếu tố khác nhau như: chi phí, cạnh tranh, khách hàng và quy định của chính phủ. Cho nên để xác định được chính xác, giá cả trong nước của mặt hàng nhập khẩu, doanh nghiệp phải nắm bắt được các yếu tố tác động tới nó.
- Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
Bước sang cơ chế thị trường, có rất nhiều doanh nghiệp được phép tham gia kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh trong kinh doanh. Cho nên doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh của mình nghĩa là cần phải xác định có bao nhiêu đối thủ, họ cung ứng mặt hàng gì với giá sao, chính sách khuyếch trương, xúc tiến của họ như thế nào, điểm mạnh điểm yếu của họ là gì. Từ đó xây dựng các kế hoạch cụ thể để tạo ưu thế so với đối thủ.
b. Nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Một điều khác biệt rất lớn giữa kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất nhập khẩu đó là phải nghiên cứu thị trường nước ngoài, điều này đặc biệt quan trọng ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung khi nghiên cứu thị trường nước ngoài phải tập trung vào các nội dung sau:
- Nghiên cứu mức cung của thị trường:
Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất cần phải chú ý khi tiến hành nghiên cứu thị trường nước ngoài. Cần phải xác định xem có bao nhiêu đối tác có thể cung ứng mặt hàng doanh nghiệp định nhập khẩu, giá cả như thế nào, các điều kiện thanh toán ra sao, khối lượng cung ứng là bao nhiêu, có những điều kiện ưu đãi gì, có thể cung ứng vào lúc nào? Các yếu tố này không chỉ ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua hoạt động nhập khẩu mà còn ảnh hưởng tới tính liên tục và ổn định của quá trình kinh doanh. Cho nên doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu một cách chi tiết và tỉ mỉ. Nhưng đồng thời phải tiến hành nhanh chóng để kịp thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh khi chúng xuất hiện.
- Nghiên cứu giá cả hàng hoá quốc tế là cần thiết đối với mọi doanh nghiệp khi muốn tham gia kinh doanh nhập khẩu. Giá cả hàng hóa thế giới phản ánh quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường đó. Do đó vấn để xác định đúng đắn giá cả quốc tế sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả kinh doanh. Giá cả ở đây là giá cả quốc tế, giá đó phải là giá cả của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Giá cả hàng hóa quốc tế chịu tác động của rất nhiều các yếu tố khác nhau, có thể kể ra như sau:
+ Giá trị quốc tế: Giá trị quốc tế được hình thành do chi phí sản xuất của các quốc gia tham gia vào kinh doanh thương mại quốc tế. Giá trị quốc tế chính là cơ sở để đưa ra giá cả quốc tế. Cho nên để xác định được chính sách giá cả quốc tế ta phải nắm bắt được giá trị của chúng. Điều này là rất khó vì chi phí sản xuất của mỗi nước là khác nhau, quy mô sản xuất cũng khác nhau cho nên khó xác định chính xác được giá trị của chúng.
+ Nhân tố lũng loạn: Nhân tố này ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và biến động của giá cả hàng hoá quốc tế, nó làm xuất phát nhiều mức giá khác nhau cùng một mặt hàng.
+ Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh là nhân tố cần phân tích trong việc hình thành giá cả trên thị trường quốc tế. Nhân tố cạnh tranh tác động tới giá cả quốc tế dưới góc độ số lượng các doanh nghiệp, quy mô tương đối của các doanh nghiệp, sự khác biệt sản phẩm và khả năng ra nhập thị trường. Ngoài ra nhân tố cạnh tranh cũng tác động đến giá cả tuỳ thuộc vào vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Thông thường yếu tố cạnh tranh xảy ra khi cung và cầu về một loại hàng hóa lệnh nhau. Nếu cung lớn hơn cầu thì cạnh tranh xảy ra sẽ làm cho giá cả giảm xuống, còn cung nhỏ hơn cầu thì cạnh tranh có xu hướng đầy giá cả lên cao.
+ Nhân tố chu kỳ: Nhân tố này cho thấy sự vận động có tính chất quy luật của giá cả hàng hóa quốc tế, nó làm thay đổi quan hệ cung cầu do đó làm biến đổi dung lượng thị trường.
+ Nhân tố lạm phát: Giá cả hàng hóa không chỉ chịu ảnh hưởng của gía trị tiền tệ của các nước có vị trí quan trọng trong mậu dịch quốc tế. Giá trị của tiền tệ luôn thay đổi, nó gắn liền với lạm phát. Lạm phát làm cho giá cả hàng hóa biểu hiện bằng tiền giấy tăng lên với những mức độ khác nhau.
Trên đây là những nhân tố cơ bản tác động tới giá cả hàng hóa quốc tế. Các doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng cần phải cố định mức độ tác động cuả chúng tới giá cả hàng hóa quốc tế và từ đó có thể lựa chọn cho mình một mức giá phù hợp nhất.
Nhìn chung khi nghiên cứu giá cả hàng hóa quốc tế cần phải tập trung vào các vấn đề sau:
* Thứ nhất, giá hàng định nhập trên thị trường thế giới. Người ta thường chọn giá ở trung tâm giao dịch truyền thống, ở những nước sản xuất chủ yếu hay những hãng sản xuất tập trung. Thông qua các trung tâm giao dịch này, các doanh nghiệp định nhập hàng phải xác định cho mình một mức giá tối ưu.
* Thứ hai, nghiên cứu tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu. Ta có thể hiểu tỷ suất ngoại tệ đối với hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ (VND ) có thể thu về được khi bỏ ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Nếu như tỷ suất ngoại tệ một mặt hàng nào đó (chẳng hạn tính bằng VND/USD ) mà còn lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc chọn mặt hàng đó nhập khẩu là có hiệu quả, và ngược lại.
- Nghiên cứu môi trường chính trị, luật pháp, tập quán buôn bán và hệ thống tài chính tiền tệ của quốc gia có thị trường hàng hóa mà doanh nghiệp định tiến hành nhập khẩu.
Mỗi quốc gia lại có một chế độ chính trị, luật pháp khác nhau, chính yếu tố này sẽ quyết định tới tính chất của quan hệ giao dịch này. Cho nên trong nghiên cứu thị trường cần phải nghiên cứu cụ thể yếu tố này. Mặt khác ở mỗi quốc gia lại có những tập quán buôn bán khác nhau. Như vậy khi muốn thiết lập mối quan hệ với một
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100596.doc