Chuyên đề Giai cấp tư sản mại bản Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975

Sau 21 năm đấu tranh gian khổ với bao hy sinh, mất mát, cả dân tộcViệt Nam như bùng nổ trong niềm vui chiến thắng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 được kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Chiến thắng ấy một lần nữa khẳng định chân lý “ đại nghĩa thắng hung tàn” trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó cũng là kết quả của sự đoàn kết toàn dân, của sự giúp đỡ tận tình của nhân dân tiến bộ thế giới, của lòng thiết tha với hoà bình, độc lập, thống nhất của nhân dân Việt Nam. Và một lần nữa vai trò lãnh đạo của Đảng ta lại được khẳng định trên thực tiễn cách mạng. Đó là chiến thắng chung của toàn thể nhân loại tiến bộ.

Cùng với thắng lợi to lớn của quân và dân Việt Nam là sự thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai thân Mỹ. Và quan trọng hơn, đó là dấu hiệu cho sự sụp đổ tất yếu của hệ thống thuộc địa kiểu mới của Mỹ trên toàn thế giới. Khi bọn thống trị thuộc địa phải cuốn gói về nước đã kéo theo một đội ngũ đông đảo bọn tay sai thân Mỹ đã từng làm công cụ thống trị của chúng tại thuộc địa. Đó là tập đoàn Nguỵ quân nguỵ quyền mà cơ sở giai cấp của chúng chủ yếu là bọn tư sản mại bản thành thị và bọn đại địa chủ phong kiến nông thôn. Bọn này do mất chỗ dựa về kinh tế- chính trị- xã hội cũng lâm vào tình trạng hoang mang, bất ổn như “ rắn mất đầu” và cũng dáo dác tìm đường thoát thân theo gót bọn quan thầy của chúng.

Trong bài viết nhỏ của mình dưới đây, chúng tôi chỉ xin khảo sát một cách khái quát nhất về giai cấp tư sản mại bản từ khi Mỹ chính thức biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng cho đến khi chúng đại bại trên chiến trường. Thời gian tuy không dài ( 21 năm) nhưng cũng đủ để một giai cấp vươn lên tự hoàn thiện mình về ý thức giai cấp cũng như khẳng định vị thế kinh tế của mình. Đặc biệt, giai cấp đó lại được sự đỡ đầu hết sức hào phóng của ông chủ Mỹ. Nhưng do ngay từ đầu, giai cấp tư sản mại bản đã tỏ rõ sự đối lập về quyền lợi cũng như ý thức chính trị với toàn thể nhân dân, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc nên cùng với sự thất bại của đế quốc Mỹ, giai cấp này cũng dần đi đến suy yếu và bị cách mạng tiêu diệt.

Khái niệm giai cấp tư sản mại bản hiện nay đã trở thành một khái niệm lịch sử, nhưng do nó đã có những tác động không nhỏ đến lịch sử Việt Nam trong một thời kỳ nhất định. Do đó, nghiên cứu về nó cũng như những tác động của nó một cách tích cực hay tiêu cực đối với toàn bộ tiến trình lịch sử dân tộc thiết nghĩ cũng rất cần thiết, đặc biệt là với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.

 

doc49 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Giai cấp tư sản mại bản Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn Khoa lịch sử đề tài: Giai cấp tư sản mại bản Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975 Chuyên đề: Biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội Việt Nam thời kỳ cận- hiện đại Người hướng dẫn: HN, tháng 11/2005 Mục lục I. Mở đầu II. Nội dung 2.1. Sự hình thành giai cấp tư sản Việt Nam 2.1.1. Mầm mống chủ nghĩa tư bản trong lòng xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược 2.1.2. Sự hình thành giai cấp tư sản Việt Nam 2.2. Khái quát về giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc. 2.2.1. Có hay không có giai cấp tư sản mại bản ở Việt Nam 2.2.2. Sự phát triển của giai cấp tư sản Việt Nam 2.2.3. Đặc điểm giai cấp tư sản mại bản Việt Nam 2.2.4 Thái độ của tư sản mại bản đối với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân ta. 2.3. Giai cấp tư sản mại bản dưới chế độ thực dân mới của Mỹ 2.3.1. Tình hình mới- những thay đổi mới 2.3.2. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp tư sản mại bản miền Nam dưới chế độ thực dân mới của Mỹ 2.3.3. Thái độ của giai cấp tư sản mại bản đối với cuộc cách mạng giải phóng của nhân dân miền Nam Việt Nam 2.4. Nhận xét về giai cấp tư sản mại bản Việt Nam 3. Kết luận Tài liệu tham khảo I. Mở đầu Sau 21 năm đấu tranh gian khổ với bao hy sinh, mất mát, cả dân tộcViệt Nam như bùng nổ trong niềm vui chiến thắng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 được kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Chiến thắng ấy một lần nữa khẳng định chân lý “ đại nghĩa thắng hung tàn” trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đó cũng là kết quả của sự đoàn kết toàn dân, của sự giúp đỡ tận tình của nhân dân tiến bộ thế giới, của lòng thiết tha với hoà bình, độc lập, thống nhất của nhân dân Việt Nam. Và một lần nữa vai trò lãnh đạo của Đảng ta lại được khẳng định trên thực tiễn cách mạng. Đó là chiến thắng chung của toàn thể nhân loại tiến bộ. Cùng với thắng lợi to lớn của quân và dân Việt Nam là sự thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai thân Mỹ. Và quan trọng hơn, đó là dấu hiệu cho sự sụp đổ tất yếu của hệ thống thuộc địa kiểu mới của Mỹ trên toàn thế giới. Khi bọn thống trị thuộc địa phải cuốn gói về nước đã kéo theo một đội ngũ đông đảo bọn tay sai thân Mỹ đã từng làm công cụ thống trị của chúng tại thuộc địa. Đó là tập đoàn Nguỵ quân nguỵ quyền mà cơ sở giai cấp của chúng chủ yếu là bọn tư sản mại bản thành thị và bọn đại địa chủ phong kiến nông thôn. Bọn này do mất chỗ dựa về kinh tế- chính trị- xã hội cũng lâm vào tình trạng hoang mang, bất ổn như “ rắn mất đầu” và cũng dáo dác tìm đường thoát thân theo gót bọn quan thầy của chúng. Trong bài viết nhỏ của mình dưới đây, chúng tôi chỉ xin khảo sát một cách khái quát nhất về giai cấp tư sản mại bản từ khi Mỹ chính thức biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng cho đến khi chúng đại bại trên chiến trường. Thời gian tuy không dài ( 21 năm) nhưng cũng đủ để một giai cấp vươn lên tự hoàn thiện mình về ý thức giai cấp cũng như khẳng định vị thế kinh tế của mình. Đặc biệt, giai cấp đó lại được sự đỡ đầu hết sức hào phóng của ông chủ Mỹ. Nhưng do ngay từ đầu, giai cấp tư sản mại bản đã tỏ rõ sự đối lập về quyền lợi cũng như ý thức chính trị với toàn thể nhân dân, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc nên cùng với sự thất bại của đế quốc Mỹ, giai cấp này cũng dần đi đến suy yếu và bị cách mạng tiêu diệt. Khái niệm giai cấp tư sản mại bản hiện nay đã trở thành một khái niệm lịch sử, nhưng do nó đã có những tác động không nhỏ đến lịch sử Việt Nam trong một thời kỳ nhất định. Do đó, nghiên cứu về nó cũng như những tác động của nó một cách tích cực hay tiêu cực đối với toàn bộ tiến trình lịch sử dân tộc thiết nghĩ cũng rất cần thiết, đặc biệt là với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. II. Nội dung 2.1. Sự hình thành giai cấp tư sản Việt Nam 2.1.1. Sự hình thành mầm mống chủ nghĩa tư bản trong lòng xã hội Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược. Kinh tế sản xuất hàng hoá đã xuất hiện từ lâu trong xã hội Việt Nam nhưng phải từ cuối thế kỷ XVI trở đi, kinh tế hàng hoá mới chiếm một địa vị đáng kể trong lòng nền kinh tế phong kiến Việt Nam. Đó cũng là thời kỳ kinh tế Việt Nam bắt đầu tiếp xúc phần nào với những hoạt động ngoại thương không chỉ với các nước phương Đông mà cả với một số nước phương Tây đang bước vào thời kỳ hình thành và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong thế kỷ XVII- XVIII, ở nước ta đã hình thành những thị trấn, thị tứ quan trọng như Hội An, Thăng Long, Gia Định...làm cho những hoạt động giao dịch với bên ngoài cũng trở nên thường xuyên và rộng rãi hơn trước, đặc biệt là với các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây. Nền sản xuất hàng hoá giản đơn đã mở rộng và thâm nhập vào nền kinh tế phong kiến tự nhiên. Đây là một sự vận động tất yếu của nội lực nền kinh tế, nhưng với lịch sử phát triển của kinh tế Việt Nam ta không thể phủ nhận vai trò của cha cố phương Tây- những người trực tiếp du nhập và củng cố phương thức sản xuất mới tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam thông qua hoạt động truyền giáo của mình. Do vậy, ở những nơi cửa biển hay các thành phố quan trọng đã xuất hiện một hạng người chuyên làm nghề thương mại- một tầng lớp tiền thân của tư bản thương mại. Vào thời kỳ vương triều Tây Sơn ( cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX) nền sản xuất hàng hoá lại tiến thêm một bước mới. Nhà nước đã ban hành những chính sách khuyến khích đối với kinh tế thương nghiệp, giải quyết một phần mâu thuẫn giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội đương thời, đẩy kinh tế hàng hoá và hoạt động công htương nghiệp tiến lên một bước. Thống nhất tiền tệ thành một đồng tiền duy nhất thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá giữa các địa phương. Những chính sách kinh tế tiến bộ của nhà Tây Sơn đã góp phần khôi phục nền kinh tế nước ta sau một thời gian dài bị chia cắt bởi tình trạng cát cứ, phân tranh giữa các tập đoàn phong kiến. Tuy nhiên, sự phát triển này đã không được duy trì lâu dài bởi sự thất bại mau chóng của vương triều Tây Sơn. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mới manh nha ở nước ta lại bước vào một thời kỳ khó khăn mới. Khi nhà Nguyễn lên nắm quyền thống trị ( đầu thế kỷ XIX) đã không những không xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến đã hết sức lỗi thời mà còn tỏ ra phản động hơn bao giờ hết. Hệ thống thượng tầng kiến trúc dưới thời Nguyễn càng bóp nghẹt cơ sở kinh tế ban đầu của kinh tế tư bản. Sức sản xuất mới trong đà phát triển của nó bị chặn đứng lại đã càng khoét sâu thêm mâu thuẫn với quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời, và càng tăng cường sự đối kháng gay gắt giữa quan hệ sản xuất với sức sản xuất mới. Thêm vào đó là những luật lệ hà khắc, chính sách “ ngăn sông cấm chợ” của triều đình phong kiến, chế độ tài chính bất bình đẳng và nạn thuế khoá, hà lạm của bọn vua chúa ngày càng làm thui chột những mầm mống tư bản chủ nghĩa mới manh nha hình thành. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ trước khi thực dân Pháp xâm lược là một nền kinh tế phong kiến, trong đó quan hệ sản xuất đã xuất hiện và phát triển đến một trình độ nhất định, làm lung lay những cơ sở của kinh tế phong kiến chủ yếu dựa trên chế độ bóc lột lao dịch và địa tô hiện vật và dựa trên quan hệ lệ thuộc về thân thể. Quan hệ sản xuất hàng hoá và tiền tệ ấy đã thúc đẩy hình thành những thị trường địa phương nhỏ hẹp đang trong quá trình dần dần liên hệ với nhau thành một thị trường mở rộng trong nước và một phần liên hệ với thị trường nước ngoài. Hệ quả tất yếu của tình trạng đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu với sức sản xuất mới (mầm mống tư bản chủ nghĩa) ngày càng bộc lộ gay gắt. mặc dù trong lòng nền kinh tế phong kiến ấy đã hình thành sức sản xuất mới, nhưng về căn bản nó cũng là yếu tố kinh tế tiền tư bản và một số yếu tố mầm mống tư bản chủ nghĩa bị kìm hãm một cách nặng nề. Quá trình sức sản xuất mới ấy lớn dần lên mâu thuẫn càng sâu sắc với quan hệ sản xuất phong kiến và chuẩn bị đập tan quan hệ ấy. Đó là quá trình tiến bộ của lịch sử. 2.1.2. Sự hình thành giai cấp tư sản Việt Nam Ngay từ khi nền kinh tế hàng hoá bắt đầu manh nha xuất hiện ở nước ta thì kéo theo đó cũng xuất hiện một lớp người thoát ly khỏi sản xuất hàng hoá đơn thuần. Đó là lực lượng tư bản thương nghiệp đầu tiên. Có thể tầng lớp này đã xuất hiện từ rất sớm trong xã hội Việt Nam, bởi trong cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền, lớp người này đã được đề cập đến. Tuy nhiên, ra đời trong một xã hội nông nghiệp cổ truyền với quan niệm Nho giáo nặng nề nên lớp người này không được coi trọng thậm chí còn bị coi thường và bị xếp vào hạng người dưới cùng trong kết cấu xã hội “ sĩ- nông- công- thương”. Cùng với sự tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp của một số ngành thủ công đã dẫn đến chỗ phân hoá trong nông dân và những người sản xuất thủ công. Trong xã hội phong kiến Việt Nam ở nông thôn đã xuất hiện một số nông dân giàu có. Đó là mầm mống tư bản trong nông nghiệp. Cùng với đó cũng xuất hiện một số thương nhân giàu có và cho vay nặng lãi đang trong quá trình tích luỹ tư bản nguyên thuỷ. đồng thời cũng xuất hiện một số rất ít công trường thủ công có mầm mống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi thực dân Pháp xâm chiếm và thống trị xã hội Việt Nam và chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào kinh tế Việt Nam, nhiều sự biến đổi căn bản đã xảy ra. Cơ sở kinh tế phong kiến đã bị đánh một đòn rất nặng, kinh tế hàng hoá tiến nhanh, cùng với nó là sự phân hoá và bần cùng hoá nông dân. sự mở rộng thị trường trong nước cũng diễn ra nhanh chóng. Quá trình đó cũng tạo điều kiện cho những mầm mống tư bản chủ nghĩa trong nước phát triển. Tuy nhiên, chính sách thuộc địa của bọn thực dân mà cụ thể lúc này là dùng Việt Nam làm thị trường tiêu thụ hàng hoá và cho vay nặng lãi, biến nước ta thành thị trường phụ thuộc vào thị trường chính quốc. Nói cách khác, thực dân Pháp không hề có ý định phát triển nền kinh tế tư bản ở thuộc địa nhằm mục đích bảo trợ cho nền công nghiệp ở chính quốc. Nhưng nằm ngoài sự tính toán của bọn thực dân, kinh tế tư bản của nước ta vẫn có bước phát triển mặc dầu hết sức nhỏ yếu và què quặt do điều kiện lịch sử qui định. Quan hệ sản xuất duy trì ở thuộc địa của tư bản ngoại quốc cùng với quan hệ kinh tế phong kiến đang tan rã và biến chất đã làm cho một số yếu tố tư bản chủ nghĩa Việt Nam xuất hiện và trở thành một vật phụ thuộc vào thực dân Pháp, chủ yếu về mặt tư bản thương mại. Những yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX trong nền kinh tế Việt Nam trong khuôn khổ của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt đó, những người tư sản Việt Nam ra đời đã đóng một con dấu rất sâu sắc và cũng rất đáng buồn ấy vào bản khai sinh của mình. Nếu như trước Thế chiến thứ nhất, tư sản Việt Nam chỉ là một lớp người ít về số lượng và yếu kém về kinh tế thì sau chiến tranh với những điều kiện mới, họ đã vươn lên thành một giai cấp với một hệ ý thức riêng, trở thành giai cấp tự thân của nó. Từ những kiến giải trên ta có thể khái quát về sự ra đời của giai cấp tư sản như sau: Khi tư bản Pháp vào chiếm trị nước ta thì chủ nghĩa tư bản Việt Nam mới trong trạng thái manh nha, giai cấp tư sản Việt Nam chưa thành hình. Chủ nghĩa đế quốc Pháp đã kìm hãm và phá hoại nền kinh tế công thương nghiệp dân tộc Việt Nam để thực hiện lợi nhuận cao nhất của nó. Chủ nghĩa tư bản Việt Nam không thể phát triển nhanh chóng. Nhưng một mặt khác, khi chủ nghĩa tư bản đế quốc thâm nhập vào nước ta, nó thúc đẩy cho nền kinh tế tự nhiên cũ mau tan vỡ, biến nước ta thành vòng khâu của thị trường Thế giới, tầng lớp vô sản làm thuê ngày càng nhiều, tầng lớp thương nhân mở rộng phạm vi kinh doanh. Tóm lại nó có tác dụng kích thích khách quan cho chủ nghĩa tư bản Việt Nam phát triển. Và tư sản Việt Nam với tư cách một giai cấp xã hội ra đời là một tất yếu lịch sử. 2.2. Khái quát về giai cấp tư sản mại bản Việt Nam thời Pháp thuộc. 2.2.1. Có hay không giai cấp tư sản mại bản ở Việt Nam? Khi đặt ra câu hỏi này điều mà chúng tôi muốn đề cập đến là có hay không sự khác biệt giữa giai cấp tư sản dân tộc với giai cấp tư sản mại bản hay không? Như chúng ta đã biết, đặc trưng cơ bản nhất làm cơ sở cho sự khác nhau giữa các giai cấp trong xã hội là quan hệ của họ khác nhau với tư liệu sản xuất, từ đó họ sẽ khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất của xã hội, khác nhau về vai trò trong tổ chức xã hội về lao động, khác nhau về phương thức hưởng thụ...nếu nói như vậy thì sự phân biệt giữa tư sản dân tộc với tư sản mại bản sẽ không giống như sự phân biệt giữa giai cấp tư sản nói chung và giai cấp phong kiến. Vì tư sản mại bản và tư sản dân tộc đều chiếm hữu tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa, đều làm giàu bằng bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đều có ý thức hệ giai cấp tư sản, và tất nhiên, họ đều thuộc về giai cấp tư sản nói chung. Và như thế thì có thể nào coi giai cấp tư sản mại bản như là một giai cấp riêng biệt trong xã hội? Nhưng sinh ra trong điều kiện xã hội thuộc địa, tư sản mại bản và tư sản dân tộc bên cạnh điểm giống nhau cơ bản, còn có những điểm rất khác nhau. đó là quan hệ kinh tế và thái độ chính trị khác nhau đối với chủ nghĩa đế quốc bên ngoài đang thống trị thuộc địa. Do đó, đã đưa tới sự phân biệt giữa giai cấp tư sản mại bản và giai cấp tư sản dân tộc. Mại bản là kẻ môi giới địa phương giữa tư bản lũng đoạn ngoại quốc và thị trường tiêu thụ, thị trường nguyên liệu thuộc địa. Nó là tay sai của tư bản tài chính ngoại quốc, là kẻ đại lý trực tiếp cho đế quốc nô dịch hoá thuộc địa và nửa thuộc địa, nghĩa là kẻ trực tiếp giúp đế quốc thống trị thị trường trong nước, thị trường dân tộc. Là một tập đoàn trực tiếp phục vụ cho tư bản đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản mại bản có quyền lợi kinh tế khăng khít với đế quốc, được đế quốc nuôi nấng. Sự gắn liền quyền lợi của nó với đế quốc thể hiện rõ rệt nhất ở chỗ nó được hưởng chung lợi nhuận cao nhất với tư bản lũng đoạn ngoại quốc. Nói khác đi, tư sản mại bản là những kẻ có độc quyền kinh doanh trong một phạm vi thị trường nào đó ở một vài thứ hàng hoá nào đó cho tư bản đế quốc chủ nghĩa. Vì dính liền quyền lợi với đế quốc, giai cấp tư sản mại bản chỉ có thể tồn tị khi đế quốc còn thống trị thị trường thuộc địa. Trên cơ sở đó, ý thức giai cấp của tư sản mại bản tuy cũng là ý thức giai cấp tư sản nói chung nhưng còn là công nhận và bảo vệ quyền lợi của bọn đế quốc thống trị thuộc địa. Trái lại, giai cấp tư sản dân tộc là tập đoàn tư sản xây dựng công nghiệp dân tộc, hoạt động kinh doanh của họ bằng cách này hay cách khác có liên hệ với nền sản xuất dân tộc, với việc đem hàng nội hoá tiêu thụ trên thị trường trong nước và trao đổi với thị trường ngoài nước. Giai cấp tư sản dân tộc chỉ có thể phát triển khi nền công nghiệp dân tộc được phát triển, thị trường trong nước được bảo vệ. Như vậy quyền lợi kinh tế của họ có mâu thuẫn với tư bản đế quốc đến thống trị thị trường thuộc địa, kìm hãm và phá hoại nền công nghiệp dân tộc. Trên cơ sở đó, ý thức giai cấp của họ tuy cũng là ý thức giai cấp tư sản nói chung nhưng còn là đấu tranh với tư bản đế quốc để bảo vệ kinh doanh của giai cấp họ. Tóm lại, trực tiếp kinh doanh với đế quốc và có một độc quyền nào đó, gắn liền quyền lợi với đế quốc và do đó có ý thức duy trì bảo vệ quyền lợi của đế quốc ở thuộc địa. Đó là điều kiện cơ bản của giai cấp tư sản mại bản phân biệt với giai cấp tư sản dân tộc. Từ sự phân biệt giai cấp tư sản mại bản với giai cấp tư sản dân tộc suy ra rằng, giai cấp tư sản mại bản ra đời phụ thuộc hai điều kiện cơ bản có liên hệ khăng khít với nhau: Một mặt tư bản đế quốc tăng cường đầu tư vào thị trường thuộc địa ở một mức độ nhất định. Mặt khác lực lượng tư sản mại bản, do đầu tư của đế quốc được tạo ra, phát triển từ ít tới nhiều, hoạt động của họ từ chỗ lẻ tẻ đến chỗ thành một tập đoàn có ý thức giai cấp của nó. Như vậy, quá trình sản sinh giai cấp tư sản mại bản- kẻ đại lý trực tiếp cho tư bản đế quốc bên ngoài, khác hẳn quá trình sản sinh giai cấp tư sản dân tộc- kẻ đại diện thực sự cho chủ nghĩa tư bản trong nước. Bởi vì chủ nghĩa tư bản nước thuộc địa, nửa thuộc địa nảy sinh cũng theo quy luật chung về sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. nó do hai điều kiện cơ bản quyết định: - Phải có một số tư nhân tập trung được nhiều tiền của vào tay ở một giai đoạn sản xuất hàng hoá tương đối cao. - Phải có những người tiểu sản xuất trở thành vô sản, tự do bán sức lao động cho những kẻ đã tập trung được nhiều tiền của. Hai điều đó không do chủ nghĩa đế quốc bên ngoài đẻ ra, nó được nảy sinh từ trong sự phát triển của nội bộ nền kinh tế nước đó, mặc dầu chủ nghĩa đế quốc thống trị có ảnh hưởng tới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Vì thế ở nhiều nước, chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh trước khi bị chủ nghĩa đế quốc chiếm trị, tức là trước khi có lực lượng tư sản mại bản thì đã có những tư sản đại biểu cho nền công thương nghiệp nước đó rồi. Sự khác nhau về điều kiện nảy sinh và quá trình phát triển của giai cấp tư sản mại bản và tư sản dân tộc biểu hiện rằng sự hình thành của hai giai cấp đó không có một mối liên hệ tất yếu, có thể đồng thời cùng xuất hiện nhưng cũng có thể xuất hiện sớm muộn khác nhau. Nhưng ở nước ta, bộ phận giai cấp tư sản mại bản chẳng những là một giai cấp cùng giai cấp tư sản dân tộc thuộc về giai cấp tư sản Việt nam nói chung mà nó cũng là giai cấp ra đời đồng thời với giai cấp tư sản dân tộc ở thời kỳ sau đại chiến Thế giới I. 2.2.2. Sự phát triển của giai cấp tư sản Việt Nam Vào thời kỳ đầu Pháp thuộc, khi đế quốc Pháp tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa Việt Nam, dần dần tạo ra tầng lớp tư sản mại bản thì cũng là thời kỳ nền kinh tế tự nhiên dần dần bị lay chuyển mạnh, kinh tế hàng hoá đã có từ trước ngày một phát triển, công nhân làm thuê và tư sản dân tộc nảy sinh ngày một tăng; nói khác đi cũng là thời kỳ lực lượng tư sản mại bản bà tư sản dân tộc phát triển song song. Hãy điểm lại sự phát triển của hai tầng lớp đó qua mấy giai đoạn lịch sử cụ thể: Nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp chú trọng dùng lực lượng quân sự cướp nước ta thành thuộc địa của chúng. Việc đầu tư khai thác lúc đó chưa phải là chủ yếu. Tuy vậy, tư bản Pháp cũng đã nhập cảng hàng ngoại hoá, xuất cảng nông phẩm và hàng thủ công ngày càng nhiều, đã bắt đầu xây dựng đô thị thành những trung tâm buôn bán của chúng. Do đó chúng cũng cần một lớp người trung gian làm đại lý tiêu thụ ngoại hoá, thu mua nông phẩm, sản phẩm thủ công và làm thầu khoán cho chúng. Lúc đó rảI rác ở các dô thị cũng có một số ít cửa hiệu đại lý hàng ngoại hoá và một số ít người làm thầu khoán cho Pháp. Tuy nhiên số người có thể gọi là tư sản mại bản lúc bấy giờ chưa chắc đã có hay nếu có thì cũng rất hiếm hoi. Vì muốn đại lý độc quyền ở một phạm vi nào đó, trước hết phải có nhiều vốn. Mà trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta cuối thế kỷ XIX mà tính chất tự nhiên còn giữ địa vị thống trị nên vai trò của các thương nhân ở các đô thị còn rất yếu ớt. Trong khi lực lượng tư sản mại bản chưa xuất hiện thì nền kinh tế tư bản chủ nghĩa Việt Nam cũng mới trong trạng tháI phôi thai. Nói cách khác, do mục đích bình định là chính trong thời kỳ đầu xâm lược của thực dân Pháp mà giai cấp tư sản Việt Nam nói chung và giai cấp tư sản mại bản nói riêng chưa xuất hiện với tư cách một giai cấp độc lập trong nền kinh tế- xã hội. Bước sang giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến đại chiến thế giới lần thứ nhất, tính chất tự nhiên của nền kinh tế Việt Nam bị lay chuyển, thị trường mở rộng từ Bắc vào Nam và đã trở thành một mắt xích trong hệ thống thị trường thế giới. Tầng lớp tư sản dân tộc xuất hiện từ những thương nhân phát đạt, những đại địa chủ tư bản hoá, những chủ xưởng thủ công giàu có. Tiêu biểu cho đám tư sản này là Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Thanh Liêm... Khi tầng lớp tư sản dân tộc được kích thích phát triển hơn trước, cũng là lúc thực dân Pháp bắt đầu đầu tư khai thác thuộc địa Việt Nam trên các mặt công, nông, thương nghiệp. Một số tư sản mại bản cũng xuất hiện trong thời kỳ này. Cùng với yêu cầu mở rộng khai thác công, nông, thương nghiệp của tư bản Pháp đã làm cho một số thương nhân, cai thầu Việt Nam trước kia trở thành một số thầu khoán lớn. Còn có vài nhà tư bản đã chung vốn với tư bản Pháp như Bùi Huy Tín, Đoàn Đình Nguyên, Lê Phát An... Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, hàng hoá Pháp và hàng Châu Âu nhập cảng giảm sút trên thị trường Việt Nam, thực dân Pháp cũng phải mở thêm một số xí nghiệp ở thuộc địa để cung cấp cho nhu cầu kinh doanh của chúng. Trong điều kiện đó tư sản dân tộc cũng như tư sản mại bản đều tăng cường hoạt động bằng mở xí nghiệp, đầu cơ tích trữ, thầu khoán và họ đã rất phát tài. Nhưng chưa bao giờ nhịp độ phát triển của lực lượng tư sản dân tộc lại được phát triển nhanh như mấy năm sau thế chiến thứ nhất. Nguyên nhân là do chủ nghĩa tư bản đang có đà phát triển từ trong chiến tranh; sau đại chiến, quan hệ hàng hoá tiền tệ càng ăn sâu vào kinh tế nông nghiệp, lôicuốn kinh tế nông dân, địa chủ vào thị trường, số người vô sản hoá rất đông, các phương tiện giao thông vận tải có nhiều, thành thị mở rộng và ngày càng tập trung. Cho nên có nhiều thương nhân giàu có lên, trở thành chủ xí nghiệp lớn như chủ công ty buôn Quảng hưng long mở xưởng làm đồ sắt, chế xà phòng với trên 100 công nhân; chủ công ty buôn Liên thành có nhiều xưởng chế nước mắm... Về phía ư sản mại bản, lực lượng cũng phát triển thời kỳ sau chiến tranh. Nguyên nhân là sau đại chiến, đế quốc Pháp đầu tư khai thác thuộc địa Việt Nam ở một qui mô rộng lớn nhất. Trong thời đại hoàng kim đó của đế quốc, một số người từ trong đám chủ hiệu đại lý ngoại hoá, thầu khoán, đại địa chủ trở thành tư sản mại bản, gắn bó quyền lợi với tư bản lũng đoạn Pháp trên các mặt công, nông, thương nghiệp. Vốn đầu tư của thực dân Pháp trung bình mỗi năm trong thời kỳ 1924- 1927 gấp 7 lần mỗi năm thời kỳ 1888- 1918, phân phối cho các ngành kinh doanh nông nghiệp 33%, công nghiệp 33%, ngân hàng 19%, vận tải 5%, thương nghiệp 10%. Điểm lại quá trình phát triển của lực lượng tư sản mại bản và tư sản dân tộc từ đầu Pháp thuộc đến sau đại chiến thứ nhất có thể đi đến kết luận sau: việc tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa Việt Nam của đế quốc Pháp một mặt dần dần tạo ra lực lượng tư sản mại bản, một mặt phá hoại nền kinh tế tự nhiên Việt Nam, kích thích cho chủ nghĩa tư bản Việt Nam từ trạng thái mầm mống phát triển lên, mặc dầu rằng nền công thương nghiệp Việt Nam phát triển một cách què quặt do sự thống trị của kinh tế đế quốc. Nếu như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Hữu Thu là tiêu biểu cho sự giàu có của lớp tư sản dân tộc thì Lê Phát An, Nguyễn Hữu Tiệp, Bùi Huy Tín cũng tiêu biểu cho sự giàu có của đám tư sản mại bản. Khi thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Việt Nam đã kìm hãm sự phát triển của tư sản dân tộc. Mâu thuẫn đó đã làm cho ý thức của giai cấp tư sản dân tộc bộc lộ trong việc vận động phát triển kinh doanh công thương nghiệp dân tộc, tiêu thụ hàng nội hoá, tảy chay hàng ngoại hoá. Cùng với đó, tư sản mại bản cũng chịu tác động nhất định. Cuộc khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp là một điều kiện lớn lao làm cho lực lượng tư sản mại bản tự giác liên kết vơí nhau thành tập đoàn gắn bó khăng khít hơn nữa với quyền lợi của đế quốc Pháp. tư sản mại bản Việt Nam đã trở thành một giai cấp. 2.2.3. Đặc điểm giai cấp tư sản mại bản Việt Nam Với tư cách là sản phẩm trực tiếp của quá trình xâm lược và nô dịch nhân dân ta của thực dân Pháp, giai cấp tư sản mại bản ra đời, hình thành và phát triển đều phụ thuộc vào chính sách kinh tế của chính quốc đối với thuộc địa. Và nhìn một cách khái quát nhất tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc ta thấy nổi bật lên ba đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất: tuy giữ vai trò môi giới, đại lý cho tư bản Pháp ở thuộc địa song giai cấp tư sản mại bản Việt Nam rất nhỏ bé và phụ thuộc. Đối với thực dân Pháp, Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung là thuộc địa khai thác. Nghĩa là chủ nghĩa tư bản Pháp coi nước ta vừa là nơi cung cấp nguyên- nhiên liệu dồi dào cho nền công nghiệp chính quốc. Đồng thời đó cũng là thị trường tiêu thụ rộng lớn, đầy tiềm năng và cũng hết sức dễ tính đảm bảo cho nền sản xuất trong nước phát triển một cách bền vững, cầu cân đối với cung. Đây được xem là cứu cánh cho nền công nghiệp lạc hậu của Pháp lúc bấy giờ so với trình độ chung của Châu Âu khi mà một cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật mới đang manh nha hình thành. Hàng hoá Pháp bị chính người Pháp chối bỏ. Công nghiệp đình trệ, kinh tế lâm vào khủng hoảng do cung vượt quá cầu. Do vậy mà sau khi hoàn thành việc lập ách thống trị ở thuộc địa, thực dân Pháp đã ồ ạt đưa hàng hoá của mình vào Việt Nam. Nhưng đồng thời cũng do chính sách “ buôn tận gốc, bán tận ngọn” hòng thu được lợi nhuận tối đa và bóc lột triệt để đối với nhân dân ta mà thực dân Pháp ở thuộc địa đã trực tiếp đứng ra nhập cảng và mở các đại lý bán hàng. Cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động xuất khẩu hàng nông sản và hàng thủ công của nhân dân ta. Thực dân Pháp ở thuộc địa đã bảo trợ cho bọn tư bản chính quốc nắm giữ độc quyền trong nhập và xuất cảng cũng như cho phép bọn chúng tự định giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCNXH (32).doc