Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đưa tới một chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Đã tròn 30 năm kể từ thời điểm lịch sử đó, nền văn học Việt Nam luôn đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước thăng trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo của một giai đoạn văn học mới. Ba mươi năm chưa phải là một khoảng thời gian dài đối với tiến trình lịch sử của một nền văn học, nhưng cũng không phải là ngắn ngủi, quan trọng hơn, nó đã đủ để tạo nên diện mạo mới với những đặc điểm và quy luật vận động riêng của một giai đoạn văn học. Mặc dù giai đoạn văn học ấy còn đang tiếp diễn, nhưng sau 30 năm và ở thời điểm đầu thế kỷ XXI này, đã rất cần đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử văn học giai đoạn từ sau 1975. Công việc đó đã trở nên cấp thiết không chỉ đối với việc tổng kết văn học thế kỷ XX để bước vào thế kỷ mới, mà còn nhằm đáp ứng một yêu cầu của giáo dục - đào tạo là việc đưa văn học sau 1975 vào nhà trường các cấp, từ phổ thông đến đại học.
Chuyên đề này không có tham vọng trình bày bức tranh lịch sử văn học Việt Nam sau 1975 - dù chỉ là phác thảo, mà chỉ nhằm nhận diện trên nét lớn một số đổi mới cơ bản của nền văn học giai đoạn này.
69 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2939 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 (nhìn trên những nét lớn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề
Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 (Nhìn trên những nét lớn)
Người biên soạn: PGS. Nguyễn Văn Long
(Số tiết: 20 tiết)
A. Mục tiêu
- Trang bị cho người học những hiểu biết cơ bản, khái quát có hệ thống về tiến trình, những đặc điểm cơ bản và sự đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975.
- Xây dựng quan điểm, phương pháp tiếp cận và đánh giá các hiện tượng văn học giai đoạn này.
- Chuẩn bị cho việc tìm hiểu và phân tích những tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 đã và sẽ có trong chương trình Ngữ văn bậc trung học.
B. phương pháp giảng dạy
- Học viên nghiên cứu tài liệu trước, nêu những vấn đề cần giải đáp và làm rõ.
- Giảng viên thuyết trình theo tài liệu, kết hợp giải đáp theo yêu cầu của học viên.
- Dành một số thời gian (4 đến 5 tiết) để trao đổi, thảo luận tại lớp theo những gợi ý ở phần hướng dẫn học tập (học viên cần chuẩn bị trước các nội dung thảo luận).
- Giảng viên tổng kết, hướng dẫn ôn tập để kiểm tra.
C. nội dung
mở đầu
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc, đồng thời cũng đưa tới một chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Đã tròn 30 năm kể từ thời điểm lịch sử đó, nền văn học Việt Nam luôn đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước thăng trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc, toàn diện, làm nên diện mạo của một giai đoạn văn học mới. Ba mươi năm chưa phải là một khoảng thời gian dài đối với tiến trình lịch sử của một nền văn học, nhưng cũng không phải là ngắn ngủi, quan trọng hơn, nó đã đủ để tạo nên diện mạo mới với những đặc điểm và quy luật vận động riêng của một giai đoạn văn học. Mặc dù giai đoạn văn học ấy còn đang tiếp diễn, nhưng sau 30 năm và ở thời điểm đầu thế kỷ XXI này, đã rất cần đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử văn học giai đoạn từ sau 1975. Công việc đó đã trở nên cấp thiết không chỉ đối với việc tổng kết văn học thế kỷ XX để bước vào thế kỷ mới, mà còn nhằm đáp ứng một yêu cầu của giáo dục - đào tạo là việc đưa văn học sau 1975 vào nhà trường các cấp, từ phổ thông đến đại học.
Chuyên đề này không có tham vọng trình bày bức tranh lịch sử văn học Việt Nam sau 1975 - dù chỉ là phác thảo, mà chỉ nhằm nhận diện trên nét lớn một số đổi mới cơ bản của nền văn học giai đoạn này.
Chương 1
Chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử - xã hội và nhu cầu đổi mới văn học
I. Những chuyển biến của hoàn cảnh lịch sử - xã hội
1. Thời kỳ mới của lịch sử đất nước
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, tổ quốc thống nhất, cả dân tộc bước vào thời kỳ xây dựng lại đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thời cơ và thuận lợi để đưa đất nước phát triển, lớn mạnh đã đến, nhưng thách thức và khó khăn thì rất nhiều. Hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh ác liệt và dài lâu vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc, cho đến nay sau 30 năm vẫn chưa thể khắc phục hết được. Đó không chỉ là sự tàn phá, hủy diệt từ cơ sở hạ tầng của nền kinh tế vốn lạc hậu, nghèo nàn đến môi trường, thiên nhiên ở khắp mọi vùng, miền. Đó còn là những hậu quả về mặt tinh thần không thể nào đo đếm được. Cùng với những khó khăn, phức tạp chồng chất của thời hậu chiến mà bất kỳ đất nước nào vừa trải qua chiến tranh đều phải gánh chịu, chúng ta còn bị rơi vào tình thế khó khăn gấp bội bởi chính sách cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế lực đế quốc thù địch, bởi sự khủng hoảng dẫn đến tan rã của hệ thống các nước XHCN và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Thêm vào đó, còn là những chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội nặng về duy ý chí, chủ quan, nóng vội. Cuộc chiến tranh giải phóng đã kết thúc, nhưng tiếng súng vẫn nổ ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, máu vẫn chảy ở chiến trường Campuchia. Tất cả những tình hình đó đã đẩy đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng nặng nề ở nửa đầu những năm 80 và hết sức trầm trọng ở giữa thập kỷ đó.
Nhưng sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của một dân tộc đã có lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước lại một lần nữa được thể hiện để đưa đất nước thoát khỏi tình thế hiểm nghèo. Đường lối đổi mới đã hình thành từ trong thực tiễn, từ những biện pháp "xé rào" để "tự cởi trói" của nhiều cơ sở kinh tế và một số địa phương, đến Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã trở thành cương lĩnh và con đường đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Sự suy thoái kinh tế đã được chặn lại và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngày một cao và dần có sự ổn định, nền kinh tế thị trường dần được hình thành. Đổi mới cũng có nghĩa là mở cửa, tăng cường giao lưu và hội nhập quốc tế trên mọi bình diện chính trị, kinh tế, văn hóa. Gần hai mươi năm từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, trên đất nước ta đã diễn ra rất nhiều sự thay đổi theo hướng tích cực, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện hình ảnh của đất nước. Tuy còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn, phải tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn và sự phát triển chưa phải đã thật vững chắc, nhưng con đường đi lên đã rõ và đường lối đổi mới đất nước là không thể đảo ngược.
2. Những chuyển biến về xã hội, văn hóa - tư tưởng
Từ chiến tranh sang hòa bình, từ nền kinh tế tập trung, bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những điều đó đã tất yếu kéo theo nhiều đổi thay về mặt xã hội. Nông thôn trước đây là chỗ dựa vững chắc của chiến tranh cách mạng, là nơi chủ yếu để huy động nhân lực, vật lực cung ứng cho chiến trường; và để làm tốt được nghĩa vụ đó, phải dựa hẳn vào cơ cấu tổ chức của hợp tác xã. Cơ cấu ấy đã không còn thích hợp với điều kiện mới, khi ruộng đất phải được giao khoán đến từng hộ nông dân, tạo điều kiện giải phóng tiềm năng của mỗi người lao động để họ được làm chủ chính mình. Thành thị trước đây không có vai trò thật quan trọng bởi chưa có kinh tế thị trường, dân cư chủ yếu là cán bộ, công chức, công nhân; hơn nữa, trong thời kỳ chiến tranh, thành thị phải phân tán xé lẻ về các vùng nông thôn hay rừng núi, nếp sống đô thị và công nghiệp không thể được duy trì. Hơn hai mươi năm đất nước bị chia cắt với sự khác biệt về chính thể, về tư tưởng và nền kinh tế cũng đã để lại nhiều vấn đề phải giải quyết sau khi đất nước thống nhất.
Trong chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc, sức mạnh của tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng đã được phát huy cao độ. Cuộc sống cá nhân, riêng tư của mỗi người phải thu hẹp lại đến tối thiểu, nhường chỗ cho đời sống chung của tập thể, của cả dân tộc. Con người được nhìn nhận, đánh giá trước hết và chủ yếu ở tư cách con người của dân tộc, của nhân dân, của cách mạng. Đó là thời kỳ, theo cách nói của Chế Lan Viên: "những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt, nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ như nhau". Chiến tranh là một hoàn cảnh khác thường, bởi vậy con người ở trong đó cũng không thể sống cuộc sống bình thường. Nay hòa bình trở lại, con người trở về với cuộc sống bình thường, cũng có nghĩa là trở về với đời thường - cái đời thường phồn tạp, muôn vẻ, lẫn lộn tốt xấu, trắng đen, bi hài... ý thức cá nhân với mọi nhu cầu của con người như một cá thể, một thực thể sống đã được thức tỉnh trở lại. Các giá trị (về xã hội, đạo đức, nhân cách...) của một thời trước đây bền vững là thế thì lúc này đã lung lay rạn nứt và đổ vỡ từng mảng. Trong khi đó các chuẩn giá trị mới thì chưa hình thành thực sự. Những năm 80, 90 của thế kỷ trước và cả đến bây giờ, xã hội và con người Việt Nam phải trải qua một cuộc trở dạ lớn lao và không ít đau đớn, phải tự xây dựng lại hình ảnh của chính mình cùng lúc với việc phải tự hình thành từng bước các tiêu chí giá trị mới. Trong tình hình ấy, đời sống văn hóa - tư tưởng cũng có diện mạo và diễn biến khá phức tạp. Không hiếm khi sự phê phán những hạn chế, bất cập của một thời đã qua được đẩy lên thành sự phủ định sạch trơn, thành thái độ cắt lìa, quay lưng lại với mọi giá trị truyền thống. Trong khi đó lại không ít người rơi vào tình thế lưỡng nan, trở thành những kẻ lạc thời, không tìm thấy chỗ đứng trong xã hội mới.
Công cuộc đổi mới đất nước cũng đồng nghĩa với việc mở cửa hội nhập với thế giới. Hoàn cảnh đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu ngày càng rộng rãi về văn hoá, văn học với khu vực và thế giới, đặc biệt là với phương tây. Trước đây, do chiến tranh và giới hạn của hệ tư tưởng nên sự giao lưu này rất hạn chế, chủ yếu là với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự giao lưu và những ảnh hưởng của văn hoá, văn học thế giới đến đời sống văn hoá, văn học nước ta ngày càng mau chóng và đậm nét.
Trên đây chỉ là phác qua một cách hết sức sơ sài và có tính chủ quan về một bối cảnh xã hội - lịch sử mà trên đó hình thành và phát triển một giai đoạn văn học mới, tương ứng với trạng thái xã hội - lịch sử ấy.
II. Nhu cầu đổi mới văn học
Văn học Việt Nam trong ba mươi năm, từ 1945 đến 1975, đã làm tròn sứ mệnh cao cả của một nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu, vì Tổ quốc, dân tộc, nhân dân. Về đặc điểm loại hình, đó là nền văn học theo khuynh hướng sử thi, được thể hiện trong sự thống nhất trên quan điểm sử thi của cảm hứng, đề tài và chủ đề, thế giới nhân vật, cho đến kết cấu, giọng điệu. Nền văn học sử thi của ba mươi năm ấy là một giai đoạn có tính đặc thù, có những đóng góp riêng cho tiến trình văn học dân tộc. Quá trình của nó còn tiếp tục chi phối nền văn học ở nửa cuối thập kỷ 70 và phần nào ở cả nửa đầu những năm 80. Nhưng sự chuyển biến của đời sống xã hội, văn hóa, tư tưởng nhất thiết sẽ dẫn đến những đổi thay trong nhu cầu và quan niệm thẩm mỹ, đòi hỏi văn học phải đổi mới. Vào cuối những năm 70, đã hình thành rõ rệt nhu cầu nhìn lại giai đoạn văn học trước đó, chỉ ra những giới hạn của nó và đã manh nha hình thành những hướng đi mới. Nguyễn Minh Châu đã bắt tay vào viết truyện ngắn Cái mặt (mà đến năm 1982 mới được công bố dưới cái tên Bức tranh). Trong những bài góp bàn về văn học viết về chiến tranh, nhà văn đã nêu quan niệm của mình - một quan niệm thật đơn giản, chính xác, nhưng không phải lúc ấy ai cũng thấy và hiểu đúng, đó là: viết về chiến tranh, rốt cuộc chính là viết về con người, con người trước những tác động của chiến tranh tới tính cách và số phận của họ. Còn nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến thì tìm ra một đặc điểm của văn học ta trong giai đoạn vừa qua (trước 1975) là "chủ nghĩa hiện thực phải đạo", tuy sự lý giải và chứng minh của ông chưa phải đã thấu đáo. Hai ví dụ trên đây chỉ là rất ít trong nhiều những trăn trở, tìm kiếm để đổi mới văn học. Nhu cầu đổi mới văn học đã dần trở thành đòi hỏi chung của cả giới sáng tác, lý luận lẫn công chúng. Bằng những tìm tòi, thể nghiệm trên cả sáng tác và hoạt động lý luận, phê bình, văn học đã hình thành từng bước một tư duy nghệ thuật mới, trên cơ sở đổi mới toàn diện các quan niệm về văn chương, về hiện thực và con người, về chính nhà văn và về công chúng văn học. Nhiều vấn đề cốt lõi cơ bản của quan niệm văn học trước đó vốn được xem là những chân lý hiển nhiên, thì bây giờ cũng phải được xem xét lại, trở thành những vấn đề tranh cãi, bàn thảo khá sôi nổi cả trong và ngoài giới văn học, như: văn học và hiện thực, văn nghệ và chính trị, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa... Đường lối mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng đã tạo cơ hội mở rộng giao lưu văn hóa, văn học giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là với phương Tây. Nhờ thế mà nhiều trào lưu, khuynh hướng và lý luận nghệ thuật hiện đại của thế giới đã được giới thiệu ở Việt Nam, tác động đến sự tìm tòi, sáng tạo của nhà văn và làm biến đổi cả thị hiếu tiếp nhận của công chúng.
Cuộc đổi mới văn học vừa là hệ quả lại vừa là một động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Chính trong khi hướng tới mục tiêu đổi mới xã hội, văn học thấy cần phải và có thể tự đổi mới chính mình.
Chương 2
Nhìn chung về tiến trình vận động của văn học từ sau 1975
Ba mươi năm qua, văn học Việt Nam đã vận động qua những chặng đường như thế nào, có sự thăng trầm, trồi sụt, quanh co hay vẫn theo một xu hướng vận động nhất quán? Theo chúng tôi, trên đại thể, từ 1975 đến nay nền văn học Việt Nam đã đi qua hai chặng đường lớn, có sự tiếp nối không đứt đoạn: Từ 1975 đến 1985 là thời kỳ chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến ; từ 1986 trở đi văn học ngắn liền với công cuộc đổi mới đất nước, trong đó có thể thấy hai chặng nhỏ từ 1986 đến đầu thập kỷ 90 là thời kỳ văn học đổi mới sôi nổi, mạnh mẽ, gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi mới đất nước; từ giữa những năm 90 đến nay, văn học trở lại với những quy luật bình thường và hướng sự quan tâm nhiều hơn vào những cách tân nghệ thuật.
1. Từ sau tháng 4 năm 1975 đến 1985.
Đây là chặng đường chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của thời kỳ hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương thức nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học.
ở nửa cuối thập kỷ 70, những năm liền ngay sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật và với những cảm hứng chủ đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Đề tài chiến tranh và khuynh hướng sử thi vẫn nổi trội, tuy đã có những tìm tòi và bước phát triển mới, cả ở văn xuôi và thơ.
Trong văn xuôi, cùng với hướng tiếp cận chiến tranh ở cự ly gần, từ chiến hào và người lính hoặc những cán bộ chỉ huy ở đơn vị cơ sở (các tiểu thuyết Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Năm 75 họ đã sống như thế của Nguyễn Trí Huân, Họ cùng thời với những ai của Thái Bá Lợi) là cách tiếp cận chiến tranh từ cái nhìn toàn cục, từ sở chỉ huy (ký sự Tháng Ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng, Đất miền Đông của Nam Hà). Một số cây bút muốn bổ sung cho bức tranh về cuộc kháng chiến bằng việc tái hiện thời kỳ đầy khó khăn của lực lượng cách mạng trên chiến trường miền Nam thời kỳ sau Mậu Thân 1968 (các tiểu thuyết Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Nắng đồng bằng của Chu Lai). Từ đỉnh cao của chiến thắng trọn vẹn, nhìn lại và tái hiện những khó khăn, tổn thất thậm chí cả những thất bại tạm thời của ta trong cuộc chiến tranh cũng chính là một cách khẳng định những giá trị lớn lao của sự hy sinh và ý nghĩa vĩ đại của chiến thắng. Trong thơ, mạch cảm hứng trữ tình - sử thi vẫn tiếp tục dòng chảy mạnh mẽ cùng với xu hướng nhìn lại khái quát về cuộc chiến tranh và hành trình của những thế hệ đã đi qua cuộc chiến đấu lâu dài và quyết liệt ấy. Cùng với các tập thơ của nhiều nhà thơ thuộc các thế hệ được ra mắt khá dồn dập trong vài năm sau khi kết thúc chiến tranh là sự nở rộ của các trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ xuất hiện trong khoảng những năm từ 1976 đến 1980 (Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Mặt trời trong lòng đất của Trần Mạnh Hảo...) Trường ca của các nhà thơ thế hệ chống Mỹ đã phát huy những ưu thế của thể loại mang tính tổng hợp, kết hợp cả tự sự, trữ tình và chính luận. Đó có thể xem là sự tổng kết những trải nghiệm và trưởng thành của thế hệ trẻ đi qua cuộc chiến tranh với tư cách của một thế hệ "dàn hàng gánh đất nước trên vai" (Bằng Việt), hay nói như Thanh Thảo thì đó là những bài ca "thô sơ mà hực sáng" gửi tới ngày mai.
Một số cây bút đã đề cập kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong buổi giao thời từ chiến tranh sang hòa bình, cuộc sống hiện ra không chỉ có niềm vui của hòa bình, chiến thắng, đoàn tụ mà còn với bao phức tạp, khó khăn và cả những mâu thuẫn mới nảy sinh (tập truyện ngắn Năm hòa bình đầu tiên và tiểu thuyết Những khoảng cách còn lại của Nguyễn Mạnh Tuấn, Miền cháy của Nguyễn Minh Châu). Bằng dự cảm của một nhà văn đầy ý thức trách nhiệm, Nguyễn Minh Châu đã khẳng định: chúng ta bước ra khỏi cuộc chiến tranh cũng phải đối mặt với những khó khăn và thách thức to lớn như khi chúng ta chấp nhận bước vào cuộc chiến tranh.
Bước vào những năm đầu thập kỷ tám mươi, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn chồng chất và rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Nền văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác. ý thức nghệ thuật của số đông người viết và công chúng chưa chuyển biến kịp với thực tiễn xã hội, những quan niệm và cách tiếp cận hiện thực vốn quen thuộc trong thời kỳ trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người đọc. Đây là khoảng thời gian mà Nguyên ngọc gọi là "khoảng chân không trong văn học". Nhưng cũng chính trong những năm này đã diễn ra sự vận động ở chiều sâu của đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt ở một số nhà văn có mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống và có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình, đó là những người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, mà người "mở đường tinh anh và tài năng" đã đi được xa nhất ở chặng đầu này là Nguyễn Minh Châu với những truyện ngắn hướng vào các vấn đề thế sự - đạo đức trong đời sống hàng ngày của con người. Góp phần tạo nên chuyển động theo hướng mới của văn học trong những năm này còn phải kể đến những sáng tác của Nguyễn Khải (Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người), Nguyễn Mạnh Tuấn (Đứng trước biển), (Cù lao tràm) Ma Văn Kháng (Mùa lá rụng trong vườn), Dương Thu Hương (Bên kia bờ ảo vọng, Chuyện tình kể trước lúc rạng đông), thơ của Nguyễn Duy (ánh trăng), ý Nhi (Người đàn bà ngồi đan), trường ca của Thanh Thảo (Những ngọn sóng mặt trời, Khối vuông Ru-Bích)... trên sân khấu kịch nói nhiều vở kịch của Lưu Quang Vũ, Xuân Trình đã trực diện tấn công vào nhiều cái tiêu cực, trì trệ trong xã hội, trong kinh tế và trong tư tưởng của một bộ phận cán bộ quản lý. Những tìm tòi và thành công bước đầu ấy đã mở ra cho văn học những hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là cái hiện thực đời thường với những vấn đề đạo đức - thế sự đang tồn tại nổi cộm, đòi hỏi văn học phải nhận thức, khám phá. Những tác phẩm ấy đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học và đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới.
2. Từ 1986 đến nay
Đầu những năm chín mươi.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng để bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc. Đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng và tiếp theo đó là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, cuộc gặp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987, tất cả những điều đó đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật. Vào nửa cuối những năm 80 và đầu những năm 90 đã phát triển mạnh khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng này và đã trở thành sự kiện văn học nổi bật của những năm 1986 - 1987. Chiến tranh cũng được Nguyễn Minh Châu nhìn nhận từ phía tác động của nó đến số phận và tính cách con người (Cỏ Lau và Mùa trái cóc ở miền Nam), còn Bảo Ninh thì thể hiện thấm thía nỗi buồn chiến tranh với những thế hệ phải trải qua cuộc chiến ấy trong Thân phận của tình yêu. Nguyễn Huy Thiệp lại phơi bày sự khủng hoảng của xã hội qua việc thay đổi các giá trị và lối sống (Tướng về hưu, Không có vua). Còn Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng lại là những bức tranh hiện thực với nhiều mảng tối trước đây thường bị khuất lấp, nay đã hiện ra trên trang sách với bao điều xót xa và cả sự nhức nhối mà các tác giả muốn thức tỉnh trong mỗi người đọc cũng như toàn xã hội để có thể dứt khoát vượt qua cái "thời xa vắng" vốn chưa xa là mấy. Cố nhiên, cảm hứng phê phán cũng có lúc bị đẩy tới cực đoan, lệch lạc và người viết bộc lộ một cái nhìn ảm đạm, hoài nghi, thiên lệch.
Tiếp tục hướng tiếp cận đời sống trên bình diện thế sự - đời tư đã được mở ra ở nửa đầu những năm 80, nhiều cây bút đã đi vào thể hiện mọi khía cạnh của đời sống cá nhân và những quan hệ thế sự đan dệt nên cuộc sống đời thường phồn tạp mà vĩnh hằng, nói như Nguyễn Minh Châu: "Cuộc đời vốn đa sự, con người thì đa đoan". Con người tự nhiên và những chiều sâu bí ẩn của tâm linh, tiềm thức, vô thức vốn là một phần không thể thiếu được của đời sống con người, nhưng trước đây do nhiều nguyên nhân mà nó thường bị văn học xem nhẹ, bỏ qua. Nay dường như để bù lại phần thiếu hụt ấy của văn học một thời, nhiều nhà văn hứng thú đi vào khám phá và thể hiện phần bản năng tự nhiên của con người và trong một số tác phẩm người ta đã thử thăm dò vào lĩnh vực tâm linh, vô thức còn đầy bí ẩn. Nhấn mạnh phương diện bản thể tự nhiên của con người là chỗ gặp gỡ của nhiều cây bút như Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bản; song ở mỗi người vẫn tạo được một quan niệm và cách thể hiện riêng.
Cùng với sự nỗ lực tự vượt mình của nhiều cây bút thuộc các thế hệ trưởng thành từ trước năm 1975, đã xuất hiện hàng loạt những cây bút thuộc các thế hệ của thời kỳ đổi mới, trong đó có hiện tượng đáng chú ý là sự hiện diện đông đảo của các cây bút nữ. Các thể loại văn học đều có sự biến đổi, nhưng giữ vai trò xung kích và phát triển sôi nổi, phong phú nhất là khu vực văn xuôi với sự đa dạng của các thể truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, phóng sự. Thơ gặp nhiều khó khăn và có những khoảng thời gian chững lại rõ rệt, nhưng không phải là không có những thành tựu đáng chú ý và nhiều nỗ lực tìm kiếm nhằm cách tân thơ ca theo hướng hiện đại, tuy chưa có mấy thành công đủ sức thuyết phục bạn đọc.
Sự đổi mới ý thức nghệ thuật nằm ở chiều sâu của đời sống văn học, nó vừa là kết quả vừa là động lực cho những tìm tòi đổi mới trong sáng tác, đồng thời lại tác động mạnh mẽ đến sự tiếp nhận của công chúng văn học. Tư duy văn học mới đã dần hình thành, làm thay đổi các quan niệm về chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc, về sự tiếp nhận văn học. Đồng thời sự đổi mới tư duy nghệ thuật cũng thúc đẩy mạnh mẽ những sự tìm kiếm, thể nghiệm về cách tiếp cận thực tại, về các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, phát huy cá tính và phong cách cá nhân của nhà văn.
Từ giữa những năm 90 đến nay
Phải chăng tiến trình văn học đổi mới đã chững lại từ giữa những năm 90, như một số ý kiến nhận định ở đây đó? Văn học có còn tiếp tục xu hướng vận động trong gần 10 năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước và đổi mới văn học? Theo chúng tôi, thoạt nhìn vào diện mạo của văn học thì có thể nhận định như vậy, nhưng nhìn sâu hơn vào đời sống văn học và sự vận động của nó thì không thể nghĩ như trên.
Gần 10 năm của chặng đầu công cuộc đổi mới, xã hội ta, trong đó có nền văn học, ở trong trạng thái chuyển động dữ dội của một cuộc trở dạ. Những khoảng thời gian như vậy có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhưng thường thì không thể kéo dài. Nếu trong chiến tranh, xã hội và văn học đều phải tồn tại trong điều kiện bất bình thường, thì trong thời kỳ diễn ra những chuyển biến lớn lao của đời sống xã hội như chặng đầu công cuộc đổi mới, cũng tạo ra một môi trường tinh thần và những điều kiện ít nhiều khác thường cho văn học phát triển. Từ giữa những năm 90 của thế kỷ vừa qua, trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội, văn học về cơ bản cũng trở lại với những quy luật mang tính bình thường, nhưng không xa dời định hướng đổi mới đã hình thành từ giữa những năm 80. Nếu như trước đó, động lực thúc đẩy văn học đổi mới là nhu cầu đổi mới xã hội và khát vọng dân chủ - đó cũng chính là nội dung cốt lõi của văn học trong chặng đầu đổi mới - thì khoảng 10 năm trở lại đây, văn học quan tâm nhiều hơn đến sự đổi mới của chính nó, mặc dù vẫn không đi ra khỏi xu hướng dân chủ hóa. Đây là lúc văn học trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức và nhu cầu tự đổi mới về hình thức nghệ thuật, phương thức thể hiện hơn bao giờ hết. Tuy ít có những tác phẩm gây được những "cú sốc" trong dư luận, trở thành những hiện tượng thu hút đông đảo công chúng, nhưng hầu như ở thể loại nào cũng có sự tìm tòi, tự đổi mới.
Trong thơ, những cách tân theo hướng hiện đại chủ nghĩa đã thu hút được nhiều cây bút thuộc các thế hệ khác nhau: Lê Đạt (Bóng chữ), Trần Dần (Cổng tỉnh, Mùa sạch), Dương Tường (36 bài tình), Hoàng Hưng (Ngựa biển, Người đi tìm mặt), Nguyễn Quang Thiều (Những người đàn bà gánh nước sông, Sự mất ngủ của lửa)... Một số cây bút trẻ gần đây đã gây được sự chú ý bằng những tìm tòi mới, có khi táo bạo trong hướng đi sâu vào bản thể con người với khát vọng thành thực phơi trải tất cả mọi điều trên trang viết (Đồng Đức Bốn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh).
Trong văn xuôi những năm chín mươi và vài năm lại đây, thấy nổi lên hai mảng đáng chú ý: hồi ký - tự truyện và tiểu thuyết lịch sử. Một loạt hồi ký của các nhà văn, nhà thơ, cả những nhà hoạt động xã hội đã đem lại cho người đọc những hiểu biết cụ thể, sinh động và xác thực về xã hội, lịch sử, về đời sống văn học và gương mặt một số nhà văn ở những thời kỳ đã q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyen de 3.doc