Việt Nam là một nước nông nghiệp có đến 80% dân số sống ở khu vực nông thôn. Trong đó có đến 90% lao động làm việc trong ngành sản xuất nông nghiệp. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Vì vậy vấn đề bức xúc đặt ra là làm sao phát triển được nền kinh tế. Đứng trước tình hình đó Đảng và Nhà nước có chủ trương đổi mới nền kinh tế, để đảm bảo cho đời sống của nhân dân đồng thời phát triển nền kinh tế của đất nước vững mạnh.
Mặc dù những năm gần đây chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế nhưng vẫn chưa được đánh giá cao ở thị trường quốc tế. Trong cơ cấu GDP tỷ trọng của ngành công nghiệp còn chưa cao, công nghiệp chưa phát triển mạnh, dịch vụ có xu hướng tăng mạnh mẽ. Đây là những biểu hiện của nền kinh tế chưa phát triển. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội là vấn đề quan trọng mang tính cấp thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ninh Giang là huyện nằm ở phía Đông Nam của Hải Dương. Vừa mang đặc điểm chung của đất nước, vừa có đặc điểm riêng của một huyện bình quân đất nông nghiệp thấp, dân số tăng cao; trình độ lạc hậu, nền kinh tế phát triển không đều.
Để đảm bảo sự phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, hiệu quả cao đòi hỏi phát huy và tối đa các nguồn lực có sẵn và các lợi thế so sánh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Từ tình hình trên em đã chọn đề tài: "Định hướng, giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội huyện Ninh Giang - Hải Dương đến năm 2010".
Nội dung của chuyên đề gồm:
Chương I: Những vấn đề lý luận về chuyển dịch kinh tế - xã hội.
Chương II: Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 1997 - 2002.
Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
92 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Định hướng, giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội huyện Ninh Giang - Hải Dương đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Việt Nam là một nước nông nghiệp có đến 80% dân số sống ở khu vực nông thôn. Trong đó có đến 90% lao động làm việc trong ngành sản xuất nông nghiệp. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Vì vậy vấn đề bức xúc đặt ra là làm sao phát triển được nền kinh tế. Đứng trước tình hình đó Đảng và Nhà nước có chủ trương đổi mới nền kinh tế, để đảm bảo cho đời sống của nhân dân đồng thời phát triển nền kinh tế của đất nước vững mạnh.
Mặc dù những năm gần đây chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế nhưng vẫn chưa được đánh giá cao ở thị trường quốc tế. Trong cơ cấu GDP tỷ trọng của ngành công nghiệp còn chưa cao, công nghiệp chưa phát triển mạnh, dịch vụ có xu hướng tăng mạnh mẽ. Đây là những biểu hiện của nền kinh tế chưa phát triển. Vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội là vấn đề quan trọng mang tính cấp thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ninh Giang là huyện nằm ở phía Đông Nam của Hải Dương. Vừa mang đặc điểm chung của đất nước, vừa có đặc điểm riêng của một huyện bình quân đất nông nghiệp thấp, dân số tăng cao; trình độ lạc hậu, nền kinh tế phát triển không đều.
Để đảm bảo sự phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, hiệu quả cao đòi hỏi phát huy và tối đa các nguồn lực có sẵn và các lợi thế so sánh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Từ tình hình trên em đã chọn đề tài: "Định hướng, giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội huyện Ninh Giang - Hải Dương đến năm 2010".
Nội dung của chuyên đề gồm:
Chương I: Những vấn đề lý luận về chuyển dịch kinh tế - xã hội.
Chương II: Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 1997 - 2002.
Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
Chương I: Những vấn đề lý luận về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
I. Cơ cấu kinh tế
1. Khái niệm
Cơ cấu kinh tế chỉ tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế chung của một quốc gia, một vùng, một ngành.
Cơ cấu kinh tế biểu hiện của những mối quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Mối quan hệ kinh tế đó không chỉ là quan hệ riêng lẻ của những quan hệ kinh tế mà là mối quan hệ tổng thể của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Bao gồm các yếu tố kinh tế như tài nguyên, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn sức lao động. Các lĩnh vực kinh tế (gồm sản xuất phân phối trao đổi, tiêu dùng), các ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, dịch vụ, du lịch… các vùng kinh tế (nông thôn, thành thị, miền núi, đồng bằng) và các thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, tư nhân, tư bản Nhà nước, tư bản tư nhân). Các quan hệ kinh tế nói trên không chỉ về quan hệ tỷ lệ số lượng, tỷ trọng lao động giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, tỷ trọng lao động giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế. Nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Có thể nêu khái niệm đầy đủ về cơ cấu kinh tế: là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều bộ phận kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau được xác định cả về định tính và định lượng trong không gian và thời gian. Trong những điều kiện kinh tế xã hội xác định phù hợp với điều kiện của mỗi nước, mỗi vùng, mỗi chủ thể kinh doanh sản xuất cơ cấu kinh tế muốn phát huy được tác dụng phải có một quá trình, một thời gian nhất định. Thời gian ấy dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế không có thể cố định lâu dài mà phải có những chuyển dịch cần thiết thích hợp với sự biến động của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Sử dụng từ quá lâu hoặc sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà không dựa vào sự biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội đều gây nên những thiệt hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không chỉ là mục tiêu mà là phương tiện của lĩnh vực tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy có nên biến đổi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hay không chuyển dịch nhanh hay chậm không phải là sự mong muốn chủ quan mà phải dựa vào mục tieu đạt hiệu quả kinh tế xã hội như thế nào. Điều này cần thiết cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho mỗi nước và cho riêng mỗi vùng.
2. Phân loại cơ cấu kinh tế.
Dưới các góc độ khác nhau cơ cấu kinh tế được phân làm nhiều loại:
- Cơ cấu ngành: trong quá trình hoạt đông sản xuất các ngành có mối quan hệ tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Quan hệ
- Cơ cấu vùng: Xét dưới giác độ hoạt động kinh tế xã hội theo lãnh thổ.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: xét hoạt động kinh tế theo quan hệ sở hữu.
- Cơ cấu đối ngoại: xét trình độ mở cửa hội nhập của nền kinh tế.
- Cơ cấu tích luỹ: xét tiềm năng phát triển kinh tế.
3. Đo lường sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Có nhiều phương pháp đánh giá trình độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế song phương pháp vec tơ là phương pháp được sử dụng phổ biến hơn cả. Để lượng hoá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa hai thời điểm t0 và t1 người ta thường sử dụng công thức sau:
Cos f =
Trong đó: Si(t) là tỷ trọng ngành i tại thời điểm t
f được coi là góc hợp bở hai vec tơi cơ cấu S(to) và S(t1). Khi đó cosf = 1 thì góc giữa hai vec tơ này bằng 0 điều đó có nghĩa là hai cơ cấu đồng nhất. Khi cosf = 0 thì góc giữa hai vec tơ này bằng 900 và các vec tơ cơ cấu là trực giao với nhau. Như vậy:
O Ê f Ê 900
Để đánh giá một cách trực giác sự chuyển dịch có thể so sánh góc f với giới hạn tối đa của sự sai lệch giữa hai vec tơ. Do vậy tỷ số phản ánh tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu.
II. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1. Khái niệm:
Trong quá trình mở rộng quy mô của nền sản xuất kinh tế, do tốc độ tăng trưởng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế không giống nhau dẫn đến mối quan hệ số lượng và chất lượng giữa chúng thay đổi tức cơ cấu kinh tế biến đổi - Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế là một quá trình thường xuyên liên tục và thường diễn ra với tốc độ tương đối chậm chạp theo thời gian. Đó là quá trình chuyển biến từ trạng thái cũ sang trạng thái mới, dưới tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan trong những điều kiện cụ thể. Các nhà kinh tế gọi đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự hình thành cơ cấu kinh tế của một nước chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan hết sức phức tạp có thể phân các nhân tố thành hai loại nhóm nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
- Nhóm nhân tố khách quan: bao gồm ba nhân tố chủ yếu sau;
+ Nhóm thứ nhất gồm các nhân tố về điều kiện tự nhiên: dự trữ tài nguyên, khoáng sản, nguồn nước, đất đai, nguồn năng lượng, khí hậu, địa hình… Các Mac viết: "Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu lấy những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định". Vì vậy nền sản xuất xã hội và cơ cấu của nó nói riêng chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên. Thiên nhiên vừa là điều kiện chung của sản xuất xã hội vừa là tư liệu của sản xuất và tư liệu của tiêu dùng. ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế mang tính trực tiếp. Tuy nhiên trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển hiện nay, việc đánh giá vai trò các nhân tố điều kiện tự nhiên cần tránh cả hai khuynh hướng đối lập nhau: hoặc quá lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên hoạc xem nhẹ vai trò của nó. Dưới sự thống trị của khoa học - công nghệ hiện đại, tài nguyên thiên nhiên không phải là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển.
- Nhóm thứ hai bao gồm các nhân tó kinh tế - xã hội bên trong của đất nước như nhu cầu thị trường, dân số và nguồn lao động trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ quản lý hoàn cảnh lịch sử của đất nước.
Tiến bộ khoa học công nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến đổi cơ cấu kinh tế: khoa học công nghệ làm thay đổi vai trò của nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm, đòi hỏi phải có quan điểm mới trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
- Nhóm thứ ba: bao gồm các nhân tố bên ngoài như quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác phân công lao động quốc tế. Do sự khác nhau về điều kiện sản xuất ở các nước đòi hỏi phải có sự trao đổi kết quả lao động với bên ngoài ở những mức độ phạm vi khác nhau.
Trong trao đổi quốc tế mỗi nước phát huy lợi thế so sánh của mình trên cơ sở chuyên môn hoá và các ngành, lĩnh vực chi phí tương đối thấp. Chính chuyên môn hoá đã thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển và kết quả làm biến đổi cơ cấu kinh tế.
- Trong quá trình quốc tế hoá và khu vực hoá đời sống kinh tế hiện nay cơ cấu kinh tế của mỗi nước còn chịu sự tác động của cơ cấu kinh tế các nước trong khu vực. Khái quát hoá sự tác động qua lại đó, các nhà kinh tế đã nêu lên một đặc trưng quan trọng về sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo kiểu làn sóng.
- Nhóm các nhân tố chủ quan: như đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ chế quản lý, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Tóm lại các nhân tố quy định cơ cấu kinh tế của một nước hợp thành một hệ thống phức tạp tác động nhiều chiều và ở những mức độ khác nhau. Do đó cần có quan điểm và hệ thống toàn diện và cụ thể khi phân tích chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
III. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số huyện trong tỉnh
Trong những năm vừa qua nền kinh tế Hải Dương đã có những chuyển biến rõ rệt. Góp phần vào đó Gia Lộc cũng là địa phương có những chuyển dịch về cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Các thành phần kinh tế phát triển mạnh tốc độ tăng trưởng khá. GDP giai đoạn 1996 - 1999 tăng là 7,5% năm. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân là 10,5%/năm. Trong đó Công nghiệp địa phương tăng 12,8% năm. Công nghiệp đã và đang đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng cho chương trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng tốc độ là 6,1%. Đến nay diện tích đất nông nghiệp được giao ổn định lâu dài. Trong trồng trọt tăng nhanh, diện tích cây trồng có giá trị kinh tế cao. Đã chuyển đổi 553ha những vùng đất trũng cấy lúa hiệu quả thấp sang trồng cây ăn quả và nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả kinh tế cao hơn. Trong lĩnh vực chăn nuôi huyện đã áp dụng phương pháp công nghiệp nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao như lai tạo thành công đàn lợn có tỷ lệ nạc cao, bò lại sinh. Các làng nghề thủ công nghiệp và dịch vụ phát triển đa dạng. Khôi phục phát triển các làng nghề truyền thống, mô hình kinh tế trang trại hình thành và phát triển: cơ cấu kinh tế là: nông nghiệp là: 77,5%, TTCM là 11,5%, tăng dần lên là 70% - 14% - 16%.
Những khó khăn tồn tại chung của các huyện.
Kinh tế phát triển chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế chuyển đổi chậm, hiệu quả kinh tế chưa cao, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém, tiêu thụ sản phẩm còn nhiều khó khăn, lao động dư thừa, thiếu việc làm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, mất cân đối giữa các ngành. Vốn đầu tư còn thiếu và giải ngân chậm dẫn đến công trình triển khai chậm., kéo dài cơ sở hạ tầng kinh tế còn yếu, thiếu đồng bộ, giao thông một số vùng sâu, vùng xa chưa được khai thông.
Vì vậy Đảng và Nhà nước, các Bộ Ngành có quan tâm đúng mức đến chắc chắn kinh tế Hải Dương ngày càng ổn định và phát triển mạnh về mọi mặt kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Nâng cao đời sống vật chất văn hoá tinh thần cho nhân dân.
Chương II
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện giai đoạn 1997 - 2000
I. Điều kiện tự nhiên - xã hội
1. Điều kiện tự nhiên
a. Ninh Giang là một huyện nằm ở phía Đông thành phố Hải Dương phía Bắc giáp huyện Gia Lộc, Tứ Kỳ, phía Nam giáp huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, phía Đông giáp huyện Tứ Kỳ và Vĩnh Bảo - Hải Phòng, phía Tây giáp huyện Thanh Miện. Lãnh thổ huyện nằm từ 21047' đến 21049' Vĩ Bắc và từ 106020' Kinh Đông.
Toàn huyện có 27 xã và một thị trấn huyện lỵ (thị trấn Ninh Giang) với tổng diện tích tự nhiên 135,48 km2, dân số năm 2002 có 147200 người, mật độ dân số năm 2002 đạt 1084 người/km2, mật độ toàn tỉnh là 1047 người/km2.
Huyện có quy mô dân số cũng như diện tích ở mức trung bình trong số 11 huyện của tỉnh. Là một huyện cuối của tỉnh lỵ - tuy xa trung tâm của tỉnh song lại có điều kiện giao lưu với các tỉnh trung tâm của tỉnh song lại có điều kiện giao lưu với các tỉnh Thái Bình và Hải Phòng thuận lợi hơn các huyện khác nhau là khi quốc lộ số 10 đi vào hoạt động.
b. Địa hình
Là một huyện đồng bằng nhưng địa hình của Ninh Giang tương đối phức tạp. Độ cao giữa các vùng chênh lệch nhau không nhiều cốt đất chênh lệch trung bình khoảng 1,0 - 1,5m. Nhưng vùng cao vùng trũng xen kẽ nhau nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, gây khó khăn cho thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá.
- Đất đai Ninh G iang được hình thành do sự bồi tụ của phù sa hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình theo hình thức pha trộn nhưng vẫn mang đặc tính của sông Thái Bình.
Địa phận huyện có nhiều sông bao bọc phía bắc có sông Đình Đào chạy qua các huyện Bình Giang - Thanh Miện, đây là đường giao thông thuỷ thuận lợi với các huyện phía trên, phía Nam là sông Luộc, một trong những con sông quan trọng của cả nước trong việc phát triển giao thông thuỷ và du lịch. Chạy ngang huyện là sông Mới thuận lợi cho việc phát triển hệ thống thuỷ nông và nuôi trồng thuỷ sản.
c. Thời tiết và khí hậu.
Cũng như các huyện đồng bằng Bắc Bộ khí hậu Ninh Giang mang tính chất nhiệt đới gió mùa. Mùa hè nóng mưa nhiều kèm theo bão, mùa đông lạnh và khô hanh, cuối mùa đông thường có mưa phù.
Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 230C đến 240C nhiệt độ cao nahát vào tháng 6 tháng 7 khoảng trên 300C có khi lên tới 36 - 370C. Tháng lạnh nhất vào tháng 12 và tháng 1 nhiệt độ xuống dưới 100C.
Độ ẩm không khí cao trung bình năm 85%. Lượng bốc hơi nước bình quân hàng năm khá lớn. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1600 - 1700 mm/năm, không đều trong cả năm.
2. Điều kiện xã hội
a. Dân số
Theo số liệu điều tra dân số trung bình của huyện năm 2000 có 146322 người năm 2002 có 147.200 ngươì, chiếm 8,7% dân số toàn tỉnh. Ninh Giang là một huyện có dân số trẻ quy mô dân số trong độ tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao có trên 55% nữ ở độ tuổi sinh đẻ. Tốc độ tăng dân số tự nhiên của huyện giảm dần từ 1,3% năm 1997 xuống 0,8% năm 2000 và 0,77% năm 2002.
Huyện có mật độ dân đông bình quân khá cao đứng thứ 5 trong các huyện thành phố của tỉnh, cao hơn trung bình của tỉnh.
b. Đặc điểm dân cư và lao động.
Dân cư của huyện chủ yếu sống ở nông thôn làm nghề nông và chăn nuôi gia súc. Dân số nông nghiệp năm 2002 chiếm 82% tổng số dân toàn huyện dân số nông thôn còn chiếm tỷ lệ lơns 95,14% vào năm 2002. Một phần dân cư tham gia phát triển một số nghề truyền thống như nghề mộc (Kiến Quốc), đan lát (Hồng Thái), chế biến nông sản (Tiền Hương) làm bánh gai nổi tiếng cả nước (thị trấn Ninh Giang).
Có khoảng 10% năm dân theo đạo Thiên Chú, nhà dân trong huyện luôn đoàn kết một khối, anh dũng trong đấu tranh, cần cù trong lao động, sản xuất. Nhân dân trong huyện là nơi phong trào hiếu học cung cấp nhiều nhân tài cho đất nước.
Tuy thế trình độ học vấn vẫn chưa được cao lắm.
c. Giáo dục và đào tạo
Cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị được chú ý đầu tư. Toàn huyện có 91 trường học trong đó có 29 trường mầm non, 28 trường tiểu học, 29 trường trung học cơ sở, 3 trường phổ thông trung học và một trung tâm giáo dục thường xuyên. Hiện có 61 trường dân lập, 29 trường bán công và 1 dân lập. Đã duy trì phổ cập tiểu học hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Và có 10 trường đạt trường chuẩn quốc gia. Tỷ lệ kiên cố hoá đối với trường mầm non đạt 15,2%, các trường tiểu học đạt 73,3%, các trường trung học cơ sở đạt 79% và các trường THPT đạt 90%. Huyện đã thường xuyên quan tâm bồi dưỡng nghiệp vụ, chính trị cho giáo viên góp phần nâng cao tỷ lệ giáo viên chuẩn.
d. Y tế
Trong thời gian qua ngành y tế đã thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu và chú ý nâng cao chất lượng khoán chữa bệnh cho nhân dân. Thực hiện tốt các phong trào tiêm chủng mở rộng, 99,8% số cháu trong độ tuổi tiêm chủng và uống thuốc phòng bệnh. Tích cực trong việc bảo vệ môi trường, phòng chống và giám sát dịch bệnh nên không có dịch bệnh xảy ra. Công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh cũng như công tác truyền thông dân số chống suy dinh dưỡng thực hiện tốt góp phần làm giảm tỷ lệ tăng dân số chỉ còn 0,77% trong 2002.
Toàn huyện đã động viên mọi nguồn lực theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Hiện nay địa bàn huyện có một bệnh viện đa khoa vơi 110 giường bệnh đưa tỷ số giường bệnh toàn huyện lên 224 giường và số giường cho một vạn dân là 15,9 người.
e. Văn hoá thông tin - thể dục thể thao
Hoạt động văn hoá thông tin đã phục vụ tốt công tác chính trị của Đảng và Nhà nước. Đã thực hiện tốt Nghị quyết TW5 về phát triển xây dựng văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đã thu hút phong trào quần chúng tham gia vận động xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, đã có 22 làng được công nhận làng khu dân cư văn hoá, 65% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Mạng lưới thư viện nông thôn được củng cố đã có 15 điểm bưu điện văn hoá xã. Đến nay đã có 100% số xã được phủ sóng phát thanh và truyền hình, 80% gia đình có phương tiện nghe nhìn. Huyện đã tạo điều kiện khôi phục duy trì các đội văn nghệ ở các xã, các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian truyền thống như chèo, hát ru, hát trống quân, rối nước, thả đèn trời, đánh pháo đất…
Thường xuyên duy trì phong trào thể dục thể thao cả 3 khu vực nông thôn, cơ quan, trường học, đặc biệt trong học sinh và thanh niên, tham gia tốt phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá xây dựng gia đình văn hoá, làng khu phố văn hoá để vừa phát triển kinh tế vừa đảm bảo an ninh quốc phòng. Hiện tại 100% số thôn đều có sân vui chơi mỗi xã đều có sân vận động phong trào TDTT đã cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1. Cơ cấu kinh tế
Trong giai đoạn 1991 - 2002 nhờ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường kinh tế huyện đã có bước phát triển mạnh trên mọi lĩnh vực.
Nếu tính về quy mô sản xuất thì giá trị sản xuất của toàn huyện tăng với nhịp độ cao hơn, cụ thể tính chung cho giai đoạn 1997 - 2002 nhịp tăng của tỷ GTSX đạt 8,2%. Giá trị sản xuất toàn huyện theo giá hiện hành gấp 1,5 lần năm 1997.
GTSX ngành nông nghiệp nói chung bao gồm cả thuỷ sản tăng 6,5 - 7% trong cả giai đoạn 1997 - 2002. Đặc biệt trong những năm 2000 - 2002 nhịp tăng đạt tới 7,5%. Đặc biệt trong những năm 2000 - 2002 nhịp tăng đạt tới 7,5%. Có được như vậy vì sản xuất nông nghiệp đã từng bước tận dụng một cách hiệu quả về nguồn lực đất đai, mặt khác những năm qua thuỷ sản tăng khá nhanh lên tới 15%/năm. Mặc dù nông nghiệp thuần tuý chỉ tăng 6%/năm . Những năm qua nhu cầu xây dựng tăng rất nhanh cơ sở xây dựng ngành xây dựng tăng trung bình gần 20%/năm cho giai đoạn 1997 - 2002 làm nhịp tăng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và xây dựng của huyện cũng tăng với nhịp độ trung bình 9,3%/năm (giai đoạn 2000 - 2002 tăng đến 13,5%/năm).
Ngành dịch vụ nói chung có tổng giá trị sản xuất tăng đến 9%/năm cho cả thời kỳ từ khi tái lập đến nay.
Giai đoạn 1997 - 2002 nhờ các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển mạnh nên cơ cấu các ngành kinh tế của huyện đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên và nông nghiệp giảm dần. Tính theo giá trị hiện hành tỷ trọng ngành nông ngư nghiệp trong GDP của huyện giảm từ 79,5% vào năm 1997 xuống 59,1% vào năm 2000 và 55,8% vào năm 2002. Trong khi đó tỷ trọng GDP ngành công nghiệp tăng 11,5% vào năm 1997 lên 16,2% vào năm 2000 và 15,7% vào năm 2002. Tỷ trọng ngành dịch vụ năm 1997 chiếm 9% tăng lên 24,7% vào năm 2000 và 28,5% vào năm 2002. Trong khi đó tỷ trọng GDP ngành công nghiệp tăng từ 11,5% vào năm 1997 lên 16,2% vào năm 2000 và 15,7% vào năm 2002. Tỷ trọng ngành dịch vụ năm 1997 chiếm 9% tăng 24,7% vào năm 2000 và 28,5% vào năm 2002.
Cơ cấu kinh tế giai đoạn 1997 - 2002 (%)
1997
1998
1999
GDP Tổng số
100,0
100,0
100,0
Nông lâm ngư nghiệp
79,5
59,1
55,8
Công nghiệp
11,5
16,2
15,7
Dịch vụ
9,0
24,7
28,5
2. Nông nghiệp, nghư nghiệp
Nhịp tăng chung GTSX của ngành cả giai đoạn 1997 - 2002 đạt 6,8%/ năm. Năm 2002 giá trị sản xuất của ngành này đạt 302,6 tỷ đồng theo giá hiện hành. Chiếm 55,8% GTSX cả huyện.
Nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn của huyện đã có chuyển biến khá. Huyện đã chú trọng các biện pháp thâm canh, ứng dụng các tiến bộ KHKT về giống, về phân bón để nâng cao chất lượng, hiệu quả cây trồng, vật nuôi. Tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tổ chức sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại, hiònh thành các vùng sản xuất hàng hoá.
* Về tăng trưởng kinh tế
Trong giai đoạn 1997 - 2002 giá trị sản xuất nông nghiệp tính theo giá so sánh 94 tăng từ 205 tỷ đồng năm 1997 lên 275 tỷ đồng vào năm 2002. GTSX ngành nông nghiệp của huyện tăng bình quân của tỉnh đạt 6%. Cho tới trước Đại hội, giai đoạn 1997- 2000 nhịp tăng của ngành đạt 5,8%. Từ sau đại hội đến nay, nông nghiệp, đặc biệt là chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp có nhịp tăng rất cao (trên 12,5%) làm cho nhịp tăng chung của ngành giai đoạn 1997 - 2002 đạt tới 7,5%.
GTSX trồng trọt tăng trung bình 6,1%/năm trong cả thời kỳ 1997 - 2002, trong đó giai đoạn 1997 - 2000 nhịp tăng là 4,8% giai đoạn sau tăng cao hơn 6,24%.
Chăn nuôi hiện nay đang được chú ý đặc biệt, đây là hướng đi lên của ngành nông nghiệp. Giai đoạn 1997 - 2002 GTSX chăn nuôi, tính cả thuỷ sản, tăng 6,8%/năm, giai đoạn 1997 - 2000 tăng 5,2% và giai đoạn sau tăng 7,7%. Đặc biệt ngành thuỷ sản tăng nhanh ở thời gian gần đây (tăng tới 12 - 15% cho hai giai đoạn) .
Dịch vụ nông nghiệp cũng theo đó tăng nhanh, nhịp tăng GTSX ngành giai đoạn 1997 - 2002 tăng bình quân 12,5% giai đoạn1997 - 2000 tăng 18% giai đoạn sau tăng chậm hơn 11,9%.
* Cơ cấu nội bộ ngành
Tỷ trọng GTSX ngành trồng trọt có xu hướng giảm từ 75% ở năm 1997 xuống còn 63,6% vào năm 2002. Năm 1997 giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi chiếm 23,7% thì năm 2002 đạt 24,8% GTSX ngành nông nghiệp. Dịch vụ nông nghiệp tuy có giá trị nhỏ trong tổng GTSX, chỉ chiếm khoảng 5- 10%, nhưng giai đoạn vừa qua đã có bước tăng đáng kể. Tỷ trọng GTSX của dịch vụ nông nghiệp mang lại chiếm 1,3% vào năm 1997 thì đến năm 2002 tỷ trọng này đã chiếm 11,6% (tăng hơn 10 lần). Điều này được lý giải rằng trong giai đoạn vừa qua sự phát triển của các lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ nông nghiệp đã thực sự có vị trí trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm qua lao động trong nông nghiệp của huyện đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, giảm từ 90,5% xuống còn 89,5% năm 2002. Tuy vậy sức chuyển dịch còn chậm, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động còn lớn.
Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1997 - 2002
1997
2000
2002
Chung
100,0
100,0
100,0
Trồng trọt
75,0
76,4
63,6
Chăn nuôi + Thuỷ sản
23,7
18,6
24,8
Dịch vụ nông nghiệp
1,3
5,0
11,6
Nguồn: Số liệu niên giám thống kê huyện Ninh Giang, 2002
2.1. Về trồng trọt
Trồng trọt của huyện chủ yếu là tập trung vào cấy lúa 2 vụ, trồng một số cây vụ đông và trồng rau đậu. Nhịp độ tăng trưởng của GTSX ngành trồng trọt giai đoạn 1997- 2000 của huyện khoảng 4,8%/ năm: giai đoạn 200 - 2002, nhờ có nhịp tăng cao hơn, 7,7% làm cho nhịp tăng chung của GTSX trồng trọt cả giai đoạn 1997 - 20025 đạt 6,1%. Tuy thời gian qua chăn nuôi đã từng bước tăng tỷ trọng của mình song trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong GTSX toàn ngành nông nghiệp (trung bình cả thời kỳ chiếm 69%). Tuy nhiên ty trọng đó đã có chiều hướng giảm, từ 75% năm 1997 xuống còn 63,6% năm 2002.
Các sản phẩm chính
Sản xuất lúa và cây màu lương thực
Lúa là cây trồng chính của huyện, với diện tích gieo trồng lúa cả năm khoảng15.300 ha, chiếm 83,6% diện tích cây hàng năm. Năng suất bình quân lúa cả năm 116 tạ/ha. Trong thời gian qua huyện đã chủ trọng đầu tư vào khâu thuỷ lợi để tăng hệ số quay vòng (hiện nay hệ số xoay vòng của huyện là 2,3 đứng thứ 4 trong các huyện của tỉnh). Sản lượng lương thực quý thóc giữ mức ổn định hàng năm khoảng 85.009 - 90.000 tấn/ năm, tăng đều theo các năm, năm 1997 sản lượng lương thực đạt 81.200 tấn, năm 2000 đạt trên 85.900 tấnvà năm 2002 đạt 89.900 tấn. Bình quân lương thực đầu người cũng theo đó tăng lên từ 550 kg năm 1997 lên 600 kg vào năm 200 và năm 2002 đạt 610 kg, đứng thứ 5trong số 1 huyện của tỉnh. Vừa qua huyện đã thực hiện đề án dồn ô thừa nhỏ thành ô thừa lớn, đã đẩy hiệu quả cho hoạt động hecta gieo trồng lên cao hơn. Theo các số liệu thống kê được thì hiệu quả trên 1 ha của cây lúa khoảng 19 - 21 triệu đồng.
Diện tích cây lương thực hàng năm (ha).
1997
1999
2000
2002
Tổng số
16.611
16.671
17.512
15.775
Lúa cả năm
15.290
15.263
15.300
15.175
Lúa chiêm xuân
70.723
7.627
7.728
7.606
Lúa mùa
7.577
7.366
7.572
7.569
Nguồn: Số liệu Niên giảm thống kê huyện Ninh Giang, 2002
Cây màu lương thực chính của huyện là ngô: Diện tích trồng màu của huyện không lớn, hiện có vào khoảng 1.000 - 1.200 ha, chiếm 6,7% diện tích cây lương thực hàng năm cho sản lượng màu quy thóc vào khoảng 9.900 - 11.000 tấn (ciếm 8 - 9% sản lượng lương thực).
Sản lượng lương thực (tấn)
1997
1999
2000
2002
Tổng số
84.484
96.891
94.877
95.092
Lúa cả năm
78.856
85.784
85.461
8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 15.doc