Chuyên đề Đầu tư phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của công ty cổ phần du lich Bưu điện giai đoạn 2000-2005

Sự phát triển không ngừng của ngành du lịch Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Quy mô của các công ty du lịch ngày càng mở rộng, số vốn giành cho đầu tư phát triển ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, gây ra sự kém hiệu quả của hoạt động đầu tư, quá trình đầu tư không đạt được những kết quả như mong muốn. Nếu không giải quyết một cách triệt để những hạn chế này sẽ gây ra sự lãng phí nguồn vốn đầu tư của bản thân doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế.

Nhận thấy sự cần thiết của vấn đề trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Đầu tư phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của công ty cổ phần du lich Bưu điện giai đoạn 2000-2005” để nghiên cứu và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp.

Kết cấu của chuyên đề gồm 2 chương:

Chương I: Đầu tư và hoạt động kinh doanh du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2000-2010.

Chương II: Một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại công ty cổ phần du lịch Bưu điện đến năm 2010.

Do vốn kiến thức còn hạn chế, ít kinh nghiệm thực tế nên trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để đề tài trên được hoàn thiện hơn nữa.

 

docChia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của công ty cổ phần du lich Bưu điện giai đoạn 2000-2005, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Sự phát triển không ngừng của ngành du lịch Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Quy mô của các công ty du lịch ngày càng mở rộng, số vốn giành cho đầu tư phát triển ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, gây ra sự kém hiệu quả của hoạt động đầu tư, quá trình đầu tư không đạt được những kết quả như mong muốn. Nếu không giải quyết một cách triệt để những hạn chế này sẽ gây ra sự lãng phí nguồn vốn đầu tư của bản thân doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Nhận thấy sự cần thiết của vấn đề trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Đầu tư phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của công ty cổ phần du lich Bưu điện giai đoạn 2000-2005” để nghiên cứu và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu của chuyên đề gồm 2 chương: Chương I: Đầu tư và hoạt động kinh doanh du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2000-2010. Chương II: Một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại công ty cổ phần du lịch Bưu điện đến năm 2010. Do vốn kiến thức còn hạn chế, ít kinh nghiệm thực tế nên trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để đề tài trên được hoàn thiện hơn nữa. Chương I ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2010. A. ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH: I. ĐẦU TƯ VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA MỖI QUỐC GIA: 1. Đầu tư là gì? Hiểu theo nghĩa chung nhất, đầu tư là sự bỏ ra hay sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được kết quả lớn hơn cho người đầu tư trong tương lai. Để giải thích rõ hơn định nghĩa trên, ta có thể hiểu các thuật ngữ như sau: Nguồn lực ở đây có thể là các nguồn lực về tài chính, nguồn lực vật chất, sức lao động, trí tuệ, thời gian... Nhà nước có thể bỏ ra các nguồn lực về tài chính để xây dựng cơ sở vật chất, một doanh nghiệp bỏ chi phí để tăng cường đào tạo cho đội ngũ nhân viên của mình, một gia đình giảm bớt việc tiêu dùng hiện tại để đầu tư cho con cái được học đại học, một nhà khoa học đóng góp nghiên cứu của mình vào việc thành lập một doanh nghiệp.... tất cả sự bỏ ra, hy sinh đó đều được gọi là nguồn lực của hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư chính là những người đã bỏ ra các nguồn lực để tiến hành các hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư có thể là Nhà nước, doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể hay tư nhân... Kết quả của hoạt động đầu tư rất đa dạng, đó có thể là sự tăng thêm về các tài sản tài chính, tài sản vật chất, nguồn nhân lực được nâng cao tay nghề, hay có thể là tăng cường một tài sản vô hình như thương hiệu, danh tiếng,.... 2. Vai trò của đầu tư đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, hoạt động đầu tư có ‎ nghĩa sống còn. Nó như một hoạt động tiếp thêm năng lượng cho một cơ thể sống, lúc còn nhỏ, đầu tư giúp cho cơ thể phát triển lớn mạnh, đúng hướng, còn khi cơ thể đó đã lớn mạnh và phát triển thì hoạt động đầu tư càng cần phải tiến hành mạnh mẽ nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển. Xét trên góc độ vĩ mô, đầu tư có những vai trò chủ yếu sau: Do có sự bỏ ra các nguồn lực ở hiện tại và tạo được những nguồn lực lớn hơn trong tương lai nên đầu tư tác động đến cả tổng cung và tổng cầu của một nền kinh tế. Đầu tư ảnh hưởng hai mặt đến sự ổn định và phát triển kinh tế. Một mặt, nó tác động thúc đẩy quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế do tạo thêm được những tài sản, nguồn lực mới, nhưng mặt khác, nó lại là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng gây hại đến sự phát triển kinh tế như lạm phát. Đầu tư có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một cơ cấu đầu tư hợp lí sẽ tạo ra được một cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo ra sự cân đối trên phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân, giữa các ngành, các vùng, phát huy được vai trò nội lực của nền kinh tế trong khi vẫn xem trọng yếu tố ngoại lực. Đầu tư có tác động đến việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ của đất nước. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15%-20% so với GDP tùy thuộc vào trình độ phát triển của từng nước. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư được coi là “cú hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. Còn đối với các quốc gia phát triển, đầu tư để duy trì sự phát triển ổn định và đúng hướng. Đầu tư giúp giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, làm gia tăng khả năng tiêu dùng cho dân cư, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của xã hội. Khi tiến hành công cuộc đầu tư, cầu về các yếu tố đầu vào cho dự án tăng, sản xuất của các ngành có liên quan phát triển, thu hút thêm sức lao động, người lao động có được thêm việc làm đồng nghĩa với việc tăng thu nhập và tăng tiêu dùng của người lao động, góp phần giảm tệ nạn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế. Xét trên góc độ vi mô, đối với doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và kinh doanh thì đầu tư chính là yếu tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Nếu không có đầu tư, doanh nghiệp sẽ sớm bị đánh bại trên thị trường. II. KINH DOANH DU LỊCH VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC: Được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói, du lịch đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Theo dự báo của nhiều chuyên gia trên thế giới, trong thế kỷ 21, du lịch là ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, kéo theo đó là sự phát triển của các loại hình dịch vụ đi kèm như nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi.... với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 4%. Năm 1997, theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), toàn thế giới có 613 triệu lượt khách du lịch. Nhưng đến năm 2005, con số này đã tăng lên tới 808 triệu lượt khách du lịch, và dự báo đến năm 2020 là 1,6 tỷ lượt. Đầu tư cho du lịch cũng lên tới 800 tỷ đôla Mỹ hàng năm, những con số này đã cho thấy du lịch dần trở thành một ngành chính cho đối với sự phát triển kinh tế của nhiều nước. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được thể hiện ở những điểm sau: 1. Du lịch – ngành mang lại nguồn thu ngân sách lớn: Du lịch là một ngành dịch vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân sách các quốc gia, trong năm 2005, với tốc độ phát triển 5,7%, ngành du lịch thế giới đã đón tiếp 808 triệu lượt khách du lịch, mang lại doanh thu trên 6 nghìn tỷ đôla Mỹ, chiếm 10,6% tổng GDP toàn cầu, dự tính trong năm 2006 doanh thu sẽ là 6500 tỷ. Dự đoán trong giai đoạn 2007-2017, ngành du lịch thế giới sẽ có tốc độ tăng trưởng trung bình đạt mức 4%/năm, đây là mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trung bình của toàn nền kinh tế thế giới. Ở các quốc gia phát triển, khi các ngành công nghiệp có xu hướng phát triển chậm lại thì du lịch vẫn đạt được tốc độ phát triển đáng kể. Một ví dụ điển hình là Pháp, quốc gia có ngành du lịch phát triển nhất thế giới, mặc dù chịu ảnh hưởng của việc đồng Euro lên giá làm giá của các tour du lịch đến Pháp trở nên đắt đỏ, ngành du lịch của quốc gia này vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 0,5% trong năm 2005, đón 75 triệu lượt khách quốc tế, doanh thu đạt 130 tỷ Euro tăng 3,5% so với năm 2004 và là ngành đóng góp nhiều nhất vào thu nhập quốc dân, chiếm 6,5% GDP, đứng trên cả ngành công nghiệp ôtô. Còn đối với các quốc gia đang phát triển, thống kê cho thấy, tại 49 nước kém phát triển nhất trên thế giới, tập trung chủ yếu ở Châu Phi thì du lịch là ngành mang lại nguồn thu lớn nhất, đặc biệt là nguồn thu ngoại tệ, đây là điều có ‎ ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia này. 2. Du lịch-ngành kinh tế trợ giúp đắc lực cho quá trình giải quyết việc làm: Không chỉ là ngành mang lại nguồn thu lớn cho đất nước, du lịch còn góp phần không nhỏ trong việc giải quyết việc làm cho lao động, tăng thu nhập cho người dân. Tính riêng năm 2005, với tốc độ tăng 5,7% ngành du lịch toàn thế giới đã tạo thêm 2,5 triệu việc làm mới nâng tổng số nhân viên hoạt động trực tiếp trong ngành lên đến 76,7 triệu chiếm 2,8% tổng số việc làm trên thế giới. Nếu tính cả lao động gián tiếp thì tổng số người sống nhờ du lịch và lữ hành là 234,3 triệu người, chiếm 8,7%. Du lịch được đánh giá là một công cụ hữu hiệu giúp xóa đói giảm nghèo do việc phát triển du lịch không đơn thuần chỉ phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế mà còn phụ thuộc khá lớn vào các điều kiện về tự nhiên, đặc điểm văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Du lịch tạo ra nhiều việc làm, trong đó có cả những việc làm không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, điều này rất quan trọng đối với những vùng núi cao, những vùng kém phát triển, là những nơi rất khó kiếm việc làm. Thậm chí, các vùng kém phát triển về kinh tế và không có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển hoạt động du lịch cũng có thể thu hút được khách du lịch ghé thăm nếu tận dụng được những điều kiện sẵn có của mình, chẳng hạn như Thái Lan, một quốc gia đã có ngành du lịch khá phát triển, nhưng vùng nông thôn, các làng nghề thủ công của Thái Lan lại chưa được tiếp xúc nhiều với ngành công nghiệp này, chính phủ đã biến du lịch trở thành một công cụ xóa đói giảm nghèo với chương trình đưa du lịch văn hóa về với cộng đồng “Mỗi làng một sản phẩm” ở Chiang Rai và Chiang Mai. Sau khi thực hiện được chương trình này được 5 tháng ở các làng nghề thủ công, khách du lịch đã dừng lại 1 đến 2 tiếng mỗi ngày, làm cho thu nhập bình quân của người dân trong làng tăng thêm 10%. Không chỉ riêng với các quốc gia đang phát triển, các quốc gia phát triển cũng thấy được vai trò của ngành du lịch trong việc giải quyết lao động dư thừa trong xã hội. Ở Pháp, ngành du lịch đã tạo thêm cho nền kinh tế 2 triệu việc làm có liên quan trực tiếp đến du lịch, đặc biệt là giúp giải quyết cho lao động có trình độ tay nghề không cao, thời gian đào tạo ngắn. Thấy được tiềm năng của ngành công nghiệp không khói này, hàng năm, chính phủ Pháp đã đầu tư cho ngành một khoản tiền không nhỏ:95,8 tỷ Euro để cải tạo hệ thống môi trường du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển du lịch, quảng bá hình ảnh. 3. Du lịch- ngành kinh tế góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước phát triển: Ngành du lịch phát triển, kéo theo đó là việc các ngành sản xuất trong nước. Với mức chi tiêu 9 nghìn tỷ đôla Mỹ cho du lịch trên toàn thế giới trong năm 2005, khách du lịch đã tiêu thụ một lượng lớn các loại hình hàng hoá dịch vụ được sản xuất trong nước. Trong khi việc xuất khẩu của các nước kém phát triển gặp nhiều khó khăn vì vấp phải vô số các hàng rào phi thuế quan thì việc tiêu dùng của khách du lịch lại là một phương cách xuất khẩu tại chỗ thuận lợi, mang lại nguồn thu lớn cho các doanh nghiệp trong nước. Các quốc gia biết cách khai thác túi tiền của khách du lịch thông qua việc xây dựng một hệ thống các trung tâm mua sắm, các dịch vụ vui chơi giải trí. Như Singapore, một quốc gia nhỏ bé nhưng có rất nhiều trung tâm mua sắm sang trọng, tầm cỡ được xây dựng theo lối kiến trúc hiện đại, cùng với các công viên và trung tâm giải trí. Khách du lịch tới đây chiếm một tỷ lệ cao là từ các quốc gia giàu có với chi tiêu trung bình từ 1500-2000 USD/người. Hay như Paris, nơi nổi tiếng là kinh đô thời trang của thế giới, mức chi tiêu trung bình của khách du lịch khi tới đây là 5000 USD. Nhằm mục đích giúp cho các dịch vụ du lịch được hấp dẫn hơn, giúp cho khách du lịch được “tiêu tiền”, nhiều quốc gia đã không tiếc tiền đầu tư vào các trung tâm giải trí, điển hình là Hồng Kông, chính phủ của nước này đã chi tới 1,2 tỷ USD cho việc cải tạo công viên Disneyland, 5,5 tỷ USD cho việc nâng cấp công viên Đại Dương và 40tỷ USD giành cho việc xây dựng trung tâm văn hóa. Bên cạnh đó, việc phát triển ngành du lịch, đón tiếp bạn bè quốc tế đến thăm và đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước và con người đã góp phần đưa thế giới lại gần nhau hơn, khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên qu‎ý giá mà thiên nhiên đã ban tặng, đồng thời tăng cường sự giao lưu giữa nhân dân các nước trên thế giới. Với tốc độ phát triển nhanh chóng, du lịch dần trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn đối với mọi quốc gia trên thế giới. III. ĐẦU TƯ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH: 1. Vai trò của đầu tư với sự phát triển ngành du lịch: Cũng giống như các ngành khác của nền kinh tế, đầu tư nắm giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Theo điều 4- Luật Du lịch Việt Nam định nghĩa: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”, và “dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”. Ngành du lịch là một ngành phát triển không chỉ đơn thuần dựa vào các điều kiện sẵn có về tự nhiên, địa hình, lịch sử, văn hóa sẵn có mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện về cơ sở hạ tầng, các dịch vụ cung cấp cho khách du lịch. Ngành du lịch của một quốc gia sẽ khó có thể phát triển được nếu chỉ có những điều kiện tự nhiên, di tích lịch sử đơn thuần, như Campuchia, một quốc gia có ngôi đền nổi tiếng Angkor Vat, nơi mà nhiều chuyên gia đánh giá là một trong những kiện tác của nhân loại, song, ngành du lịch của Campuchia hàng năm chỉ đón tiếp được hơn 2 triệu khách du lịch do cơ sở hạ tầng không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch, tỷ lệ khách du lịch quay lại lần 2, 3 chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Một ví dụ khác: so với Việt Nam, Hồng Kông không có nhiều các di sản thiên nhiên, không có được những bãi biển và hang động đẹp như Việt Nam, song, nhờ có một cơ sở hạ tầng giao thông phát triển, và việc đầu tư thích đáng giành cho việc phát triển hệ thống dịch vụ du lịch, các dịch vụ mua sắm, vui chơi giải trí, Hồng Kông đã có số khách du lịch hàng năm bằng 192,1% dân số, trong khi con số này của Việt Nam chỉ là 3,6%. Một cuộc điều tra tại triển lãm quốc tế về du lịch tại Hồng Kông đã cho thấy: 21,1% khách du lịch cho rằng khách sạn và khu nghỉ dưỡng là điều kiện thu hút trước tiên, tiếp theo đó là các phương tiện giao thông, điểm du lịch và các công viên chủ đề đứng thứ ba. Như vậy, các điều kiện về cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển ngành du lịch. 2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực du lịch. Theo điều 4-Luật Du lịch Việt Nam được thông qua vào ngày 14/6/2005 và có hiệu lực bắt đầu từ 1/1/2006 đã quy định rõ: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”. Và “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”.Chính vì vậy, đầu tư vào lĩnh vực này có những điểm khác biệt so với đầu tư vào các ngành khác. Nhìn chung, không một doanh nghiệp du lịch hay bất kỳ một công ty nào, kể cả các công ty, các tập đoàn xuyên quốc gia có thể thực hiện được tất cả các khâu trong việc cung cấp các dịch vụ du lịch. Du lịch không đơn thuần chỉ là việc tổ chức điều hành tour, sắp xếp nơi ăn chốn ở cho khách du lịch mà còn bao gồm cả những hoạt động thăm quan tới các vùng, các hoạt động mua sắm, vui chơi giải trí. Đây là một mảng kinh doanh rất rộng bao trùm nhiều ngành nghề mà một doanh nghiệp đơn lẻ khó có thể bao quát được toàn bộ. Liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, các địa phương, các ngành, các cấp trong việc tiến hành các công cuộc đầu tư phát triển du lịch là một việc làm cần thiết, vừa tạo ra tính thống nhất, lại vừa tạo được tính chuyên nghiệp trong quá trình cung cấp sản phẩm. Bên cạnh việc đầu tư mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp du lịch, để có một ngành du lịch phát triển, Nhà Nước cũng cần phải tích cực tham gia đầu tư vào lĩnh vực này thông qua việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phối hợp đầu tư cùng với doanh nghiệp để tạo nên một tổng thể du lịch phát triển toàn diện. Ở Malaysia, năm 1965, khi nền kinh tế còn ở giai đoạn chậm phát triển, chính phủ không đánh giá cao vai trò của ngành du lịch, một nhà thầu xây dựng tư nhân với số vốn khổng lồ đã quyết định đầu tư phát triển một khu du lịch trên cao nguyên Cameron. Tuy có số vốn khổng lồ nhưng việc phát triển một khu cao nguyên còn hoang sơ, cơ sở hạ tầng khó khăn, giao thông đi lại không thuận tiện, điện nước hoàn toàn không có, nếu chỉ để một mình nhà thầu tổ chức thực hiện sẽ không có tính khả thi. Thấy được tiềm năng của khu vực này, chính phủ đã bắt tay với nhà thầu tư nhân cùng nhau tiến hành xây dựng cơ sở vật chất cho toàn bộ vùng đồi núi Genting thuộc cao nguyên Cameron, các chính sách về thuế và tiền thuê đất ưu đãi nhất đã được áp dụng, nhà thầu tiến hành xây dựng khu du lịch, Nhà nước hỗ trợ cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, hỗ trợ thêm kinh phí cho quá trình xây dựng của nhà thầu, thậm chí, chính phủ Malaysia đã đồng ‎ý cho xây dựng casino đầu tiên của đất nước tại khu vực này. Kết quả của công cuộc đầu tư này nằm ngoài tầm dự đoán, sự phát triển thành công của khu du lịch không chỉ tạo cho nhà thầu đầu tư những khoản lợi nhuận khổng lồ mà còn tạo cho quốc gia Đông Nam Á này một ngành du lịch phát triển vượt bậc so với các nước trong khu vực. Hàng năm, chỉ riêng khu nghỉ mát này đã thu hút 15 triệu du khách trong và ngoài nước tới đây, thu về hàng tỷ đô la từ các dịch vụ du lịch. Đây là chính là kết quả của sự hợp tác thành công giữa chính phủ và doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực du lịch cần phải được tiến hành đồng bộ, theo quy hoạch cụ thể thì mới tạo được sức hút trong hoạt động kinh doanh. Khi tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, các quốc gia cần tính đến việc phát triển các tiềm năng du lịch của địa phương để có thể tận dụng được tối đa nguồn tài nguyên du lịch. Một ví dụ cho việc phát triển du lịch không theo quy hoạch đã gây ra những nguy cơ lớn cho nền kinh tế đó là Campuchia. Ở Siem Reap, nhờ có khu đền Angkor Vat nổi tiếng thế giới và đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1992, ngành du lịch của thành phố phát triển quá nhanh để chạy đua đáp ứng với nhu cầu của lượng khách du lịch ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, việc phát triển này hầu như mang tính tự phát, tính quy hoạch đồng bộ không được bảo đảm, sự phát triển quá nhanh của ngành làm cho công tác quản lí không thể theo kịp, những yếu kém đã bộc lộ rõ. Các khách sạn quanh khu đền mọc lên như nấm, số phòng khách sạn tăng lên với tốc độ kỷ lục, từ chỗ tổng công suất phòng của thành phố chỉ đạt 2500 phòng, đến nay đã tăng lên gấp đôi, đạt tới con số 5000 phòng và dự tính đến cuối năm 2006 sẽ lên tới 8000 phòng. Trong khi số lượng khách du lịch và số phòng khách sạn tăng lên với tốc độ chóng mặt thì Nhà nước lại không có một quy hoạch phát triển tổng thể để kìm hãm sự phát triển quá đà này. Kết quả là cơ sở vật chất của thành phố không theo kịp nhu cầu. Nguồn điện không đủ để cung cấp cho nhu cầu của cư dân địa phương, hệ thống xử lí rác thải không được cải tạo thường xuyên đã rơi vào tình trạng yếu kém, dòng sông bị ô nhiểm bởi nguồn rác thải chưa qua xử lí. Thêm vào đó là mối lo ngại về việc khách du lịch có thể tiêu thụ một lượng nước lớn có thể làm cạn kiệt các mạch nước ngầm dẫn đến sụt lở đất và kéo theo việc sụp đổ của các ngôi đền trong khu di tích Angkor Vat, đây là một vấn đề nghiêm trọng đối với đất nước Campuchia. Phát triển du lịch đồng bộ sẽ đem lại một hiệu quả du lịch lâu dài cho các quốc gia. Du lịch là hoạt động mang đậm nét văn hóa của địa phương, do vậy, các sản phẩm của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này cũng cần phải chú ‎ý tới vấn đề văn hóa. Đặc thù của hoạt động du lịch là mang tính chất địa phương rất rõ. L‎ý do chủ yếu của khách du lịch khi đi thăm quan chính là được khám phá những vùng đất mới, tìm hiểu những nền văn hóa mới, độc đáo và riêng biệt với những điều kiện tự nhiên thuận lợi. Nếu như khi đầu tư vào phát triển du lịch ở địa phương nhưng lại đem mô hình phát triển của địa phương khác, nước khác để học tập, mô phỏng một cách rập khuôn thì sẽ không thu được hiệu quả cao, không tận dụng được nguồn tài nguyên tại địa phương, đôi khi đầu tư nhiều lại mang lại hiệu quả ngược lại. Những năm trước, hai quốc gia Singapore và Hồng Kông tận dụng lợi thế phát triển về kinh tế của mình để đưa ngành du lịch đi lên nhanh chóng, trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển của ngành này lại có phần đi xuống, đặc biệt là khách du lịch từ châu Âu có phần giảm hơn so với các giai đoạn trước, nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do khách du lịch đã đánh giá hai quốc gia này ngày càng có nhiều điểm giống với du lịch ở châu Âu, đã mất dần đi nét đẹp Á đông vốn có, giảm sức thu hút, do vậy, nhiều khách châu Âu đã chuyển sang đi các tour du lịch đến các quốc gia khác trong khu vực như Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan,.... nơi du lịch vẫn mang được nét bản sắc văn hoá vốn có, không chịu nhiều tác động của văn hóa phương Tây. Bên cạnh những đặc điểm trên, đầu tư trong lĩnh vực du lịch còn cần phải tính đến tính chất mùa vụ của hoạt động này. Ở những khu nghỉ mát nổi tiếng, vào mùa du lịch, các trung tâm vui chơi, các khách sạn đều kín người, công suất thường xuyên đạt mức 100%, cung không đủ cầu, nhưng khi kỳ nghỉ kết thúc, các khách sạn trở nên vắng vẻ, có khi chỉ đạt công suất dưới 30%, nhân viên không đủ việc làm, nhiều người phải nghỉ việc. Do vậy, khi tiến hành đầu tư cần phải tính đến tính chất mùa vụ trong hoạt động này để có thể tranh thủ được thời cơ cũng như có những biện pháp để hạn chế lãng phí do hiện tượng này gây ra. B. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH DỊCH VỤ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2005: I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM: 1. Tiềm năng du lịch Việt Nam: Tiềm năng du lịch Việt Nam được nhiều chuyên gia trên thế giới đánh giá rất cao. Cựu Thủ tướng New Zealand, ông Mike Moore, đồng thời từng là cựu chủ tịch tổ chức du lịch thế giới UNWTO nhân chuyến thăm Việt Nam vào tháng 4/2005 đã đánh giá: Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển về du lịch lớn nhất mà ông đã từng biết. Du khách nước ngoài thường chú ‎ý đến hai yếu tố là sự an toàn và hấp dẫn của điểm đến. Với chiều dài bờ biển 3444 km chưa kể hải đảo, điều kiện tự nhiên phong phú, khí hậu thuận lợi, văn hóa đa dạng, với nhiều địa danh được UNESSCO xếp hạng là di sản văn hóa thế giới, các hang động được chọn vào danh sách những hang động đẹp nhất thế giới, Việt Nam có đủ sự hấp dẫn về điểm đến. Hơn nữa, với sự ổn định về chính trị, Việt Nam đã nhiều lần được các tổ chức du lịch danh tiếng trên thế giới đánh giá là điểm đến an toàn nhất trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Có đầy đủ được hai yếu tố này, cộng thêm những thuận lợi to lớn về cơ hội đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng khi Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới WTO, khi các hãng hàng không giá rẻ, các tập đoàn du lịch lữ hành, các khách sạn lớn đầu tư vào Việt Nam sẽ tạo cho du lịch Việt Nam hình ảnh mới, là một địa điểm thu hút khách du lịch ở khắp nơi trên thế giới. 2. Tình hình phát triển ngành du lịch của nước ta: Từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, ngành du lịch Việt Nam bắt đầu bước sang một giai đoạn đi lên mạnh mẽ. Năm 1986, nền kinh tế mới mở cửa, cơ sở hạ tầng thấp kém, du lịch trong nước kém phát triển, ngay cả một thành phố lớn như Hà Nội, toàn thành phố chỉ có duy nhất một khách sạn được phép đón tiếp khách quốc tế. Trong cả năm 1986, cả nước chỉ đón trên 100 nghìn khách quốc tế, doanh thu từ du lịch chiếm một phần không đáng kể so với thu nhập quốc dân. Đất nước tiến hành mở cửa đã mở ra những cơ hội lớn đối với sự phát triển của ngành. Chỉ sau gần 20 năm, ngành du lịch nước ta đã có bước tiến bộ đáng kể. Chỉ riêng trong giai đoạn 1991-2001, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng lên 8 lần, khách nội địa tăng lên 10 lần. (Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam) Doanh thu từ du lịch năm 2005 đạt 30 nghìn tỷ đồng chiếm 5% GDP cả nước, trong đó, doanh thu ngoại tệ đạt 1,5 tỷ đôla. Du lịch hiện tại là ngành dịch vụ mang lại nguồn doanh thu lớn nhất cho nền kinh tế quốc dân. Ngành du lịch đã tạo việc làm cho 250 nghìn lao động trực tiếp và 450 nghìn lao động gián tiếp, chiếm gần 6% tổng số lao động của cả nước. Dự tính đến năm 2010, lao động trong ngành du lịch sẽ chiếm 12% tổng số lao động. Nhận thấy được vai trò quan trọng của ngành công nghiệp không khói này, trong nhiều năm qua, chính phủ Việt Nam đã giành nhiều sự quan tâm đến việc đầu tư phát triển. Trong giai đoạn 2000-2005, chính phủ đã giành một nguồn vốn 1956 tỷ đồng hỗ trợ cho các địa phương phát triển du lịch, đặc biệt ưu tiên cho các địa phương có các di sản quốc gia. (Nguồn: Tổng cục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110869.doc
Tài liệu liên quan