Một số vấn đề về thời đại ngày nay
Ngày nay, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nớc với sức mạnh quốc tế là một trong những bài
học kinh nghiệm lớn của cách mạng nớc ta, mà Đảng ta bao giờ
cũng hết sức chú trọng. Và chỉ có thể có một quan điểm toàn diện,
sâu sắc về thế giới ngày nay về thời đại chúng ta đang sống dựa trên
một nhận thức khoa học về thời đại mới có cơ sở, điều kiện để hình
thành cơng lĩnh, đờng lối, chiến lợc, sách lợc đúng đắn nhằm
phát triển kinh tế - xã hội chính trị, văn hóa của đất nớc trong sự vận
động đi lên của xã hội loài ngời
90 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Chủ nghĩa xã hội khoa học (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ nghĩa thực dân mới còn các mâu thuẫn khác không
kém phần quan trọng, đó là:
- Mâu thuẫn giữa xu hướng phát triển tất yếu một nền kinh tế, một
chế độ xã hội độc lập, tự chủ, phồn vinh để theo kịp dòng tiến hóa
chung của nhân loại với tình trạng nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế - xã
hội của điểm xuất phát.
- Mâu thuẫn giữa các lực lượng tiến bộ muốn giữ vững hòa bình
ổn định và phát triển với các lực lượng phản động gây rối muốn đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa... Trong bối cảnh lịch sử hiện nay
việc lựa chọn con đường phát triển của các nước trong khu vực này
quả thực không đơn giản. Cần phải có thêm thời gian và thực tiễn
cuộc sống để nâng bước các nước đang phát triển đi vào con đường
XHCN.
III. Những Vấn Đề Toàn Cầu Cấp Bách Của Thời Đại
TRONG Điều Kiện Hiện NAY.
1. Quan niệm về những vấn đề toàn cầu và toàn cầu cấp bách.
Trước đây các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê nin chưa có đủ
tiền đề để trình bày một cách có hệ thống quan điểm của mình về
những vấn đề toàn cầu và lợi ích chung của nhân loại, dẫu rằng ăng
ghen đã đề cập trực tiếp đến vấn đề này. Có thể nói ở thời các ông
tính chất gay gắt của những mâu thuẫn giữa các giai cấp, xung đột
giữa con người với giới tự nhiên chưa đạt tới quy mô toàn cầu. Do đó
thuật ngữ những vấn đề toàn cầu mới chỉ xuất hiện trong thời gian gần
đây. Bản thân thuật ngữ này dùng để chỉ những vấn đề mà tác động
của nó có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của tất cả các dân tộc,
không biệt chế độ chính sách - xã hội, biên giới, quốc gia. Những vấn
đề toàn cầu không thể được giải quyết bởi từng quốc gia, dân tộc
hoặc một nhóm nước mà đòi hỏi sự phối hợp sức lực với ý thức trách
nhiệm cao của toàn nhân loại.
Như vậy có thể hiểu những vấn đề toàn cầu có những đặc điểm
sau:
Thứ nhất: là những vấn đề thực sự đụng chạm đến lợi ích của toàn
thể loài người, tương lai của loài người. Với ý nghĩa đó có thể nói
rằng những vấn đề toàn cầu mang tính nhân loại.
Thứ hai: đó là những vấn đề bao quát chung và trên thực tế thực
sự, có tính chất quốc tế, có nghĩa là được thể hiện như một yếu tố
khách quan trong sự phát triển xã hội trên mọi khu vực chủ yếu của
trái đất.
Thứ ba là những vấn đề mà nếu không giải quyết sẽ gây nguy cơ
đe dọa tương lai của loài người, hoặc những vấn đề cần phải giải
quyết để bảo đảm cho xã hội tiếp tục phát triển. Những vấn đề đó
cũng có thể được xếp vào những vấn đề toàn cầu.
Những vấn đề toàn cầu là một khái niệm rộng bao gồm nhiều vấn
đề nhưng ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu những vấn đề toàn cầu có
tính cấp bách của thời đại trong giai đoạn hiện nay.
Vậy vấn đề toàn cầu cấp bách là gì?
Trước đây, những hậu quả tai hại do con người hoặc cộng đồng
người nào đó gây ra còn mang tính chất cục bộ và không gây nguy
hiểm cho cả loài người nói chung. Lúc bấy giờ con người còn có khả
năng sửa chữa sai lầm, kể cả những sai lầm có thể dẫn đến sự hủy diệt
một bộ phận loài người hoặc một cộng đồng người. Vì thế có những
nước văn minh đã mất đi nhưng sự tiêu vong của những nền văn minh
đó chỉ có thể làm chậm lại chứ không thể làm ngăn cản được tiến
trình phát triển của loài người, hơn nữa không thể là sự kết thúc của
lịch sử.
Nhưng ngày nay điều đó không còn nữa bởi quy mô và sự gay gắt
của các hậu quả tai hại do bất kỳ hành động sai lầm nào của con
người gây nên đã tăng lên chưa từng thấy. Những hành động đó dù
xảy ra ở một nơi nào trên trái đất, hay do một bộ phận người nào đó
gây ra đều tất yếu dẫn tới những hậu quả không phải là cục bộ mà
chung cho cả loài người. Tức là mang tính toàn cầu. Những vấn đề đó
có ảnh hưởng trực liếp đến sự sống còn của toàn nhân loại một cách
bức xúc. Vì vậy con người đã và đang ý thức được tính chất nghiêm
trọng của những vấn đề đã xảy ra dẫn tới sự quan tâm ngày càng tăng
ở khắp mọi nơi. Và những vấn đề đó gọi là những vấn đề toàn cầu cấp
bách.
Như vậy, vấn đề toàn cầu cũng như toàn cầu cấp bách bao giờ
cũng chỉ tồn tại trong một bối cảnh xã hội nhất định, chứ không thể
tách rời, độc lập với bối cảnh xã hội đó.
Tùy theo lập trường quan điểm của giai cấp cầm quyền, xuất phát
từ những vấn đề cấp bách của đất nước mà mỗi quốc gia có thể nêu ra
những vấn đề toàn cầu cấp bách khác nhau. Song cơ bản có 4 vấn đề
như Đảng ta đã xác định: "Nhân dân các nước đang đứng trước những
vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là
giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; bảo vệ môi trường
sống, hạn chế sự bùng nổ dân số; phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh
tật hiểm nghèo"1.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr. 7.
2. Một số vấn đề toàn cầu cấp bách hiện nay.
a) Đấu tranh ngăn chặn chiến tranh huỷ diệt, ngăn chặn khủng
bố - bảo vệ hòa bình thế giới.
- Nhân loại đã phải gánh chịu biết bao đau thương, chết chóc do
những cuộc chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc gây ra. Đặc biệt là của
chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai mà hậu quả của nó như đã
nêu ở phần trên.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai lại tiếp đến thời kỳ chiến tranh
lạnh do chủ nghĩa đế quốc khởi xướng suốt 5 thập kỷ mà mục tiêu của
chiến tranh lạnh này là nhằm vào việc xóa bỏ hệ thống XHCN bằng
"diễn biến hòa bình". Đây là thời kỳ căng thẳng, chạy đua vũ trang
chưa từng có trong lịch sử loài người, gây biết bao tai họa đó là chết
chóc, lãng phí tài nguyên, ônhiễm môi trường mà đáng ra tài nguyên
đó đem phục vụ sự sống của con người thì lại đưa vào chiến tranh.
Trong chiến tranh lạnh, các nước đế quốc chỉ cho tuyên truyền,
thực hiện "diễn biến hòa bình" rất lớn nhằm chống lại các nước
XHCN. Họ thành lập Đài châu á tự do, Đài châu Âu tự do, Đài
Hồximacti cho chiến lược diễn biến hòa bình. Khái niệm "diễn biến
hòa bình" chống các nước XHCN chính là "sáng tạo" của chủ nghĩa
đế quốc. Là thủ đoạn hết sức nham hiểm và tỏ ra rất có hiệu lực. Bằng
chiến tranh quân sự, vũ trang chủ nghĩa đế quốc đã không tiêu diệt
nổi CNXH buộc chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ phải thay
đổi chiến lược, phải dùng cuộc chiến tranh không có tiếng súng, cuộc
chiến tranh bằng nhung lụa. Chính sự tiến công của chủ nghĩa đế
quốc bằng "diễn biến hòa bình" kết hợp với những sai lầm yếu kém
trong bản thân các nước XHCN hiện thực đã làm cho CNXH ở Liên -
Xô và Đông Âu sụp đổ.
Đây chính là "thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi". Trong chiến
lược này, tấn công trên mặt trận tư tưởng văn hóa được coi là mũi đột
phá làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra
khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng
xóa bỏ hệ tư tưởng XHCN. Chính các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế
quốc đã tổng kết "Một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một
đất nước", "Một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5
đô la chi cho quốc phòng", "Kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền,
dân tộc, tôn giáo là 4 đòn đột phá khẩu, 4 mũi xung kích để chọc
thủng mặt trận tư tưởng, chính trị". Chính Tổng thống Mỹ Nic-xơn đã
nhiều lần nhắc lại trong cuốn sách "Năm 1991 - chiến thắng không
cần chiến tranh" rằng: "Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất"
"Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch viện trợ, quan
hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư
tưởng".
Bên cạnh cuộc tấn công trên mặt trận tư tưởng, văn hóa chúng còn
dùng thủ đoạn về kinh tế như viện trợ nhân đạo, bao vây cấm vận,
giúp đỡ không hoàn lại... đòi tư nhân hóa nền kinh tế, làm cho kinh tế
các nước bị lệ thuộc vào kinh tế tư bản chủ nghĩa - từ lệ thuộc kinh tế
dẫn đến sự lệ thuộc về chính trị và cuối cùng là lệ thuộc hoàn toàn.
Ngày nay, mặc dù người ta nói rằng thời kỳ chiến tranh lạnh đã
chết nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc
tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ rất phức tạp và ngày càng tăng,
chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang phát triển gây ra những cuộc xung
đột đẫm máu. ở đây khi nói tới xung đột thì có hai loại xung đột:
Loại thứ nhất là xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo. Loại thứ hai
là can thiệp lật đổ, thậm chí các thế lực bên ngoài kích động để dẫn
đến xung đột nội bộ ngày càng phức tạp và tính phức tạp ngày càng
tăng. Chủ nghĩa ly tâm, xu hướng ly khai cũng đang diễn ra ở nhiều
quốc gia trên thế giới gây nên xung đột đẫm máu từ Inđônêxia,
Mianma, Srilanca... đến nay đã lan sang cả châu Âu, các nước như
Tây Ban Nha, Canada... chủ nghĩa ly khai đang phát triển.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chủ nghĩa đế quốc đã gây ra cuộc
chạy đua vũ trang chưa từng thấy. Hiện nay Mỹ vẫn đơn phương chạy
đua vũ trang, đơn phương hủy bỏ hiệp định ABM về cắt giảm vũ khí
hạt nhân đã ký với Nga. Để chạy đua theo chương trình phòng thủ tên
lửa trên không NMD và TMD. Trong cuộc chạy đua ấy nổi bật lên là
chạy đua sản xuất và kinh doanh vũ khí giết người.
Nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ mà người ta có thể
chế tạo ra những vũ khí giết người rất khiếp khủng như xe tăng, máy
bay, bom đạn đủ các loại... Ngay từ năm 1918 Lê nin đã thấy trước
khả năng này. Người nói: Kỹ thuật hiện đại hiện nay ngày càng tiếp
sức cho tính hủy diệt của chiến tranh.
Ngày xưa trong đánh giặc cha ông ta đã mơ ước có thứ vũ khí vạn
năng bắn một phát chết hàng vạn tên thì ngày nay cũng chính con
người đã sản xuất ra thứ vũ khí để giết người còn ghê gớm hơn, đó là
vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học, hóa học, vũ khí vi trùng...
Vũ khí hạt nhân là loại vũ khí giết người hàng loạt không những
thế nó còn giết dần giết mòn từ đời này sang đời khác. Nếu kỷ nguyên
hạt nhân được mở đầu bằng việc Mỹ ném hai quả bom nguyên tử
xuống nước Nhật vào tháng 8/1945 không những đã cướp đi tính
mạng của hơn chục vạn con người mà mấy chục năm sau con người
vẫn chết dần chết mòn trong bệnh tật, quái thai... thì đến nay con
người đã sản xuất ra một lượng vũ khí hạt nhân đủ sức tiêu diệt 20 lần
sự sống của hành tinh chúng ta.
Chúng ta đã từng biết về sự tàn khốc của cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất và lần thứ hai, những các cuộc chiến tranh đó vẫn đến hồi
kết thúc vẫn phân định được thắng bại. Còn hiện nay chiến tranh hạt
nhân nổ ra thì đó là cuộc chiến tranh không phân thắng bại vì không
còn ai sống sót để phân thắng bại. Bởi lẽ rằng hiện nay trên thế giới
hầu như nước nào cũng có vũ khí hạt nhân, từ nước giàu đến nước
nghèo, từ nước có khả năng sản xuất ra vũ khí hạt nhân đến nước
không có khả năng sản xuất ra vũ khí hạt nhân - vì lợi ích và mục
đích quân sự của dân tộc mà đều tàng trữ loại vũ khí đó. Thậm chí có
nhiều nước rất nhiều vũ khí hạt nhân, nhiều nước vẫn không ngừng
sản xuất ra vũ khí hạt nhân. Và thực tế trong số những vũ khí nguy
hiểm có tính hủy diệt hàng loạt thì nhiều nhất là loại vũ khí này. Gần
đây nhất lại xuất hiện vũ khí sinh học, vũ khí vi trùng chỉ cần gửi qua
bao thư, qua mạng là đã gây nên bệnh tật chết người. Điều đó làm
kinh hoàng cả thế giới.
Sẽ là thiếu sót nếu không nhắc tới nạn khủng bố diễn ra hiện nay
trên thế giới. Đặc biệt là vụ khủng bố hôm 11/9/2001 vào trung tâm
thương mại của nước Mỹ mà ai cũng biết, làm cho 5000 người thiệt
mạng, thiệt hại về giá trị sản lượng toàn cầu là 350 tỷ USD. Nhưng
điều đáng nói là sau ngay sau đó Mỹ đã nhân danh chống khủng bố
để tiến hành một cuộc đại khủng bố nhằm vào đất nước Apganistan
bất chấp luật lệ và sự phản đối của nhân dân thế giới. Để tham gia vào
"cuộc chiến chống khủng bố" đó Mỹ đã lôi kéo nhiều nước cùng trực
tiếp tham gia như Anh, Canađa, Australia, Đức và Pháp, ngoài ra hơn
40 nước trung Đông, châu Phi, châu Âu và toàn cầu á cho phép sử
dụng không phân và căn cứ trên đất liền...
Mỹ đã rải xuống đất nước này một lượng bom đạn vũ khí khổng
lồ nhằm vào các mục tiêu quân sự, dân sự, những xóm thôn, làng
bản... gây đau thương chết chóc và hủy diệt những cơ sở vật chất, kỹ
thuật. Đây là dịp để công nghiệp sản xuất vũ khí của Mỹ có cơ hội
nghiên cứu, thử nghiệm và quảng cáo những vũ khí tối tân của mình
qua chiến trường ápganistan.
Trước thực trạng đó của thế giới đã đặt ra một cách cấp thiết là
phải đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới. Phải xem củng cố hòa bình là
một vấn đề then chốt, có tính chất quyết định trong toàn bộ hệ thống
những vấn đề toàn cầu hiện nay cũng như trong tương lai. Nếu xem
xét vấn đề này trên quan điểm chung nhất thì có thể nói rằng quyền
được sống trong điều kiện hòa bình của con người và của các dân tộc
là vấn đề căn bản nhất, từ đó sinh ra mọi quyền khác của con người.
Nếu không có quyền được sống trong hòa bình thì những quyền khác
sẽ không thể thực hiện được. Toàn bộ kinh nghiệm mà loài người tích
lũy được trong cả quá trình lịch sử của mình đã chứng tỏ điều đó. Đặc
biệt là trước thềm của thế kỷ XXI nó càng trở nên tối cần thiết và cấp
bách. Ngay từ Đại hội XXVI của Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây
cũng đã xác định: "Ngày nay đối với Đảng ta, nhân dân ta cũng như
đối với tất cả các dân tộc trên hành tinh, không có một nhiệm vụ quốc
tế nào quan trọng hơn là nhiệm vụ bảo vệ hòa bình"1.
Hay đồng chí L.I. Brê - giơ - nép cũng tuyên bố: "Không phải việc
chuẩn bị chiến tranh - một việc buộc các dân tộc phải hao phí của cải
vật chất và tinh thần của mình một cách vô lý - mà việc củng cố hòa
bình mới chính là sợi dây chỉ đường dẫn đến ngày mai" (Sđd).
Đấu tranh bảo vệ mục tiêu hòa bình cho nhân loại không chỉ đặt
ra cho riêng ai mà đòi hỏi tất cả mọi quốc gia dân tộc trên thế giới,
mọi lực lượng xã hội bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư
sản, thanh niên, phụ nữ, trẻ em, đồng bào các dân tộc, các tôn
giáo.v.v... trong đó giai cấp công nhân là lực lượng xã hội chủ yếu đi
đầu trong xã hội hiện nay có khả năng đóng góp rất nhiều cho sự
nghiệp bảo vệ hòa bình. Trước đây khi hệ thống XHCN chưa bị sụp
đổ thì phe XHCN là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong bảo vệ hòa
bình thế giới. Bởi bản chất của CNXH là hòa bình. Nay CNXH bị sụp
đổ thì đòi hỏi cả nhân loại yêu chuộng hòa bình phải tích cực đấu
tranh bảo vệ hòa bình trong phạm vi nhỏ cũng như trong phạm vi lớn -
kể cả nhân dân Mỹ ở tại nước Mỹ.
Đấu tranh bảo vệ hòa bình bao gồm nhiều vấn đề như chống chiến
tranh hủy diệt, chống khủng bố, chống xung đột, chống phân ly,
chống diễn biến hòa bình nhưng trong đó nổi cộm nhất là chống chiến
tranh hủy diệt và chống khủng bố. Điều sâu xa nhất, quan trọng nhất
để ngăn chặn được tất cả những vấn đề trên là đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc. Vì còn đế quốc là còn chiến tranh - chiến tranh là kẻ
thù của hòa bình dưới bất kỳ hình thức nào. Nên nhân loại muốn có
1 Đại hội XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô, tiếng Việt, Nxb Sự Thật, H. 1981, tr. 63.
hòa bình thật sự, hòa bình vĩnh viễn thì phải đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹ.
Tuy nhiên việc đấu tranh để hủy bỏ các loại vũ khí giết người
hàng loạt đặc biệt là vũ khí hạt nhân đang gặp phải khó khăn, trở ngại
lớn khi mà còn có nước coi việc giải quyết vấn đề tài chính của họ
bằng con đường xuất khẩu vũ khí hoặc buôn bán các nguyên liệu có
liên quan đến chế tạo vũ khí hạt nhân, sinh học, hóa học... Vì vậy
trong số những nhà tư bản đầu sỏ đa số là những tên sản xuất, buôn
bán vũ khí, những tên lái súng. Họ thu được những món lợi khổng lồ
nhờ có chiến tranh và buôn bán vũ khí giết người. Chính R. Ních -
xơn đã từng tuyên bố: Hy vọng thủ tiêu hoàn toàn vũ khí hạt nhân là
ảo tưởng. ông ta khuyên mọi người hãy tìm cách sống lâu dài với loại
vũ khí đó.
Liên - Xô trước khi sụp đổ đã kịp làm việc có ý nghĩa rất quan
trọng là đã cùng Mỹ (nói đúng hơn là bắt buộc Mỹ) ký kết hiệp ước
hủy bỏ một phần loại vũ khí nguy hiểm nhất này. Trước đó Liên Xô
làm gương mang ra hủy trước. Sau đó Liên Bang Nga lại tiếp tục ký
với Mỹ bản hiệp định ABM. Làm cho loại vũ khí này có giảm bớt.
Tuy nhiên sau đó Mỹ đơn phương không thực hiện hiệp định và cùng
với một số nước khác như Pháp vẫn tăng cường sản xuất vũ khí hạt
nhân.
Việc thu nhỏ vũ khí hạt nhân và việc cải tiến công nghệ chế tạo
nó sẽ dẫn đến việc không thể kiểm soát được việc sản xuất và phổ
biến loại vũ khí này.
Song cần phải thấy rằng, nên đấu tranh không cho sản xuất ra vũ
khí hạt nhân là hữu hiệu nhất. Còn khi đã sản xuất ra quá nhiều mang
đi hủy bớt thì nó không giết người trực tiếp cũng là giết người gián
tiếp, vì nó gây chấn động vỏ quả đất, chất độc lan tỏa trong không
gian làm hủy diệt sinh thái gây bệnh tật cho con người.v.v...
* Đấu tranh cho hòa bình trong thời đại còn có sự phân chia giai
cấp và đối kháng giai cấp gay gắt như hiện nay không phải là cuộc
đấu tranh đơn giản ngày một, ngày hai mà chừng nào còn chủ nghĩa
đế quốc thì hòa bình của thế giới còn bị đe dọa. Do đó cần phải thực
hiện nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Trong điều kiện hiện nay, khi tình thế cách mạng chưa chín muồi
để dẫn tới thắng lợi của CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Sự tồn tại
của các nước tư bản chủ nghĩa, của các nước dân tộc chủ nghĩa và các
nước theo định hướng XHCN với những màu sắc chính trị khác nhau
còn tồn tại lâu dài và tất yếu khách quan. Đấu tranh cho hòa bình
trong hoàn cảnh đó cững là quá trình lâu dài, phức tạp trong khi chưa
thể loại bỏ được nhau thì phải cùng tồn tại hòa bình. Để có hòa bình
và ổn định giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau phải biết tôn
trọng quyền lợi chính đáng của nhau. Trong khi không xem nhẹ cuộc
đấu tranh tất yếu diễn ra do sự đối lập về bản chất xã hội, giữa các
nước đó, cũng không ngừng mở rộng quan hệ qua lại trên các lĩnh vực
khác nhau để cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Để đạt được những mục tiêu trong cuộc đấu tranh cùng tồn tại hòa
bình, các lực lượng cách mạng và dân chủ phải đấu tranh buộc chủ
nghĩa đế quốc thực hiện những nội dung sau:
- Về chính trị: là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị - xã hội
của mỗi dân tộc, trong đó thừa nhận sự ra đời của CNXH như là biểu
hiện cao nhất của tự do lựa chọn chế độ chính trị - xã hội, là nội dung
quan trọng nhất của cuộc đấu tranh cho cùng tồn tại hòa bình. Nó mặc
nhiên chống lại sự can thiệp của các thế lực tư bản, đế quốc vào công
việc nội bộ của các nước XHCN.
Về quân sự: phải kiên quyết loại bỏ việc dùng vũ lực để giải quyết
mâu thuẫn bất đồng giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản. Không sử dụng
bạo lực trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong bất kỳ tình huống
nào và gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải trừ vũ khí, giải trừ
quân bị.
- Về kinh tế - văn hóa - khoa học kỹ thuật: Cùng tồn tại hòa bình
đòi hỏi phải đẩy mạnh hợp tác kinh tế - văn hóa - khoa học kỹ thuật
giữa tất cả các dân tộc, quốc gia trên cơ sở bình đẳng, hai bên cùng có
lợi. Những hợp đồng kinh tế giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội
khác nhau là một nhân tố chống lại chiến tranh.
Nếu thế giới trước đây nằm trong tình trạng đối đầu rất căng
thẳng thì thế giới ngày nay là thế giới đối thoại và hợp tác - thế giới
cùng chung sống hòa bình giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã
hội khác nhau.
Nhưng cũng nên nhớ rằng: Không phải như vậy là thế giới đã hết
mâu thuẫn, hết đấu tranh mà là sự hợp tác trong đấu tranh vì đấu tranh
phải hợp tác. Nếu ai quên mất điều đó hoặc không nhận thấy điều đó
sẽ là kẻ mơ hồ về chính trị. Mà việc đấu tranh để ký kết hiệp định
thương mại giữa Việt Nam và Mỹ vừa qua là một ví dụ điển hình.
b) Đấu tranh bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên.
* Môi trường và sự ô nhiễm môi trường:
"Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân
tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh trong tới
đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên"
(Theo điều 1, luật bảo vệ môi trường của Việt Nam).
Từ định nghĩa tổng quát này, các khái niệm về môi trường còn
được hiểu theo các nghĩa khác nhau, nhưng tựu trung lại không nằm
ngoài nội dung của định nghĩa kinh điển nêu trên.
- Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã
hội cần thiết cho sự sống, sản xuất của con người, như tài nguyên
thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã
hội...
- Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên,
mà chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới
chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của học sinh, sinh
viên bao gồm nhà trường với thầy giáo, bạn bè, nội quy của trường,
lớp học, sân chơi, phòng thí nghiệm, vườn trường, tổ chức xã hội như
Đoàn, Đội với các điều lệ hay gia đình, họ tộc, làng xóm với những
quy định không thành văn, chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công
nhận, thi hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, Nghị
định, thông tư, quy định.
Tóm lại: môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta
cơ sở để sống và phát triển.
- Ô nhiễm môi trường:
Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam:
"ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường,
vi phạm tiêu chuẩn môi trường".
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các
chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây
hại đến sức khỏe con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy
giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường
bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn
(chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các
dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó
hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có
khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
Từ ô nhiễm môi trường trầm trọng đã dẫn tới sự khủng hoảng môi
trường.
Hiện nay, thế giới đang đứng trước 5 cuộc khủng hoảng lớn là:
dân số, lương thực, năng lượng, tài nguyên và sinh thái. Năm cuộc
khủng hoảng này đều liên quan chặt chẽ với môi trường và làm cho
chất lượng cuộc sống của con người có nguy cơ suy giảm. Nguyên
nhân gây nên các cuộc khủng hoảng là do sự bùng nổ dân số và các
yếu tố phát sinh từ sự gia tăng dân số. Do đó, xuất hiện một khái niệm
mới là khủng hoảng môi trường.
"Khủng hoảng môi trường là các suy thoái về chất lượng môi
trường sống trên quy mô toàn cầu, đe dọa cuộc sống của loài người
trên trái đất".
Sau đây là những biểu hiện của sự khủng hoảng môi trường.
+ Ô nhiễm không khí (bụi, SO2, CO2.v.v...) vượt tiêu chuẩn cho
phép tại các đô thị, khu công nghiệp.
+ Hiệu ứng nhà kính đang gia tăng làm biến đổi khí hậu toàn cầu.
+ Tầng ô zôn bị phá hủy.
+ Sa mạc hóa đất do nhiều nguyên nhân như bạc màu, mặn hóa,
phèn chua, khô hạn.
+ Nguồn nước lợ ô nhiễm.
+ Ô nhiễm biển xảy ra với mức độ ngày càng tăng.
+ Rừng đang suy giảm về số lượng và suy thoái về chất lượng.
+ Số chủng loài động vật bị tiêu diệt đang gia tăng.
+ Rác thải, chất thải đang gia tăng về số lượng và mức độ độc hại.
* Thực trạng vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên hiện
nay trên thế giới.
Theo báo cáo tổng quan môi trường toàn cầu năm 2000 của
chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đã phân tích hai xu
hướng bao trùm khi loài người trước vào thiên niên kỷ thứ III.
Thứ nhất: Đó là các hệ sinh thái và sinh thái nhân văn toàn cầu bị
đe dọa bởi sự mất cân bằng sâu sắc trong năng suất và trong phân bố
hàng hóa và dịch vụ. Một tỷ lệ đáng kể nhân loại hiện nay vẫn đang
sống trong sự nghèo khó và xu hướng được dự báo là sự khác biệt sẽ
ngày càng tăng giữa những người không bền vững theo hai thái cực:
Sự phồn thịnh và sự cùng cực đang de dọa sự ổn định của toàn bộ hệ
thống nhân văn và cùng với nó là môi trường toàn cầu.
Thứ hai: Thế giới hiện đang ngày càng biến đổi, trong đó sự phối
hợp quản lý môi trường ở quy mô Quốc tế luôn bị tụt hậu so với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Những thành quả về môi trường thu được
nhờ công nghệ và những chính sách môi đang không theo kịp nhịp độ
và quy mô gia tăng dân số và phát triển kinh tế. Mỗi một phần trên bề
mặt trái đất được thiên nhiên ban tặng cho các thuộc tính môi trường
của riêng mình. Mặt khác, lại cũng phải đương đầu với hàng loạt các
vấn đề mang tính toàn cầu đã và đang nổi lên. Những thách thức đó
là:
- Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần suất thiên tai gia tăng.
Vào cuối những năm 1990, mức phát tán đi-ô-xit-cac-bon (CO2)
hàng năm xấp xỉ bằng bốn lần mức phát tán năm 1950 và hàm lượng
CO2 đã đạt đến mức cao nhất trong những năm gần đây. Theo đánh
giá của Ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu thì có bằng chứng cho
thấy về ảnh hưởng rất rõ rệt của con người đến khí hậu toàn cầu.
Những kết quả dự báo gồm việc dịch chuyển của các đới khí hậu,
những thay đổi trong thành phần loài và năng suất của các hệ sinh
thái, sự gia
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuyen_de_chu_nghia_xa_hoi_khoa_hoc_phan_2.pdf