Ngành Cà phê là một ngành kinh tế mũi nhọn với Việt nam hiện nay là ngành phát huy được lợi thế so sánh của Việt nam để tham gia vào thương mại quốc tế hiệu quả đem lại nguồn thu ngoại tệ to lớn và giải quyết được việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập cao, góp phần cải thiện môi trường sinh thái. Phủ xanh đất trống đồi trọc, xoá bỏ nạn trồng cây thuốc phiện, khắc phục nạn du canh, du cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Tây nguyên và vùng trung du miền núi phía Bắc. Đảng và Nhà nước ta còn xác định ngành xuất khẩu cà phê là ngành mang tính chiến lượcphục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế quốc dân. Xoá bỏ dân tính độc canh cây lúa. Nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước mà cây cà phê nhanh chóng trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu thứ 2 sau gạo.
Trong thời gian vừa qua ngành cà phê Việt nam đã gặt hái được nhiều thành công trên thị trường thế giới Việt nam trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trế giới sau Brazin. Uy tín của ngành cà phê Việt nam trở thành thành viên của tổ chức cà phê thế giới (ICO) và nhiều lần được Hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê (ACPC) đề nghị ra nhập.
Bên cạnh những thành tựu to lớn như ngành xuất khẩu cà phê đã dành được trong thời gian vừa qua ngành cà phê Việt nam còn rất nhiều hạn chế như chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt nam còn kém, bộ máy tổ chức xuất khẩu cà phê Việt nam hoạt động chưa hiệu quả, ngành cà phê Việt nam còn đang ở tình trạng tự phát trong sản xuất, rối loạn trong xuất khẩu chưa có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhành giữa các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu các chính sách khuyến khích của Chính phủ chưa phát huy được tác dụng vốn thiếu nguyên trọng công nghệ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu, ảnh hưởng của ngành cà phê Việt nam tới thị trường cà phê thế giới còn yếu. Tình hình giá cà phê trên thị trường thế giới biến động phức tạp ta luôn luôn thụ động trước sự biến động đó tất cả các yếu tố này dẫn đến ngành cà phê xuất khẩu của Việt Nam hoạt động trong thời gian vừa qua chưa có hiệu quả.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của ngành xuất khẩu cà phê đối với Việt nam và nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ đảy mạnh CNH - HĐH đất nước. thông qua quá trình thực tập tại Vụ kế hoạch thống kê Bộ Thương mại và quá trình tìm hiểu thông tin về tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt nam thơì gian qua tại Vụ và Trung tâm tư liệu thư viện, đồng thời kết hợp các kiến thức đã được trang bị tại trường em đã quyết định chọn đề tài:
"Các phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt nam tới năm 2005". Mục đích của chuyên đề thực tập này là tổng hợp lại bức tranh toàn cảnh về tình hình sau xuất, chế biến và xuất khẩu của ngành cà phê Việt nam trong thời gian qua. Qua đó phân tích những thành tựu và những mặt hạn chế của ngành Xuất khẩu Cà phê Việt nam. Đồng thời qua dự báo về tình hình biến động cung cầu giá cả Cà phê trên thị trường thế giới kết hợp với quan điểm chú trọng của Đảng trong việc pháthị trường riển ngành xuất khẩu Cà phê . Để tìm ra định hướng đúng đắn cho ngành cà phê Việt nam trong thời gian tới và quá độ đề xuất một giải pháp để giải quyết những khó khăn hạn chế đang còn tồn tại với ngành cà phê Xuất khẩu Việt nam.
Kết cấu của chuyên đề chia làm 3 chương .
Chương I. Các vấn đề lý luận về sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng .
Chương II: Thực trạng xuất khẩu Cà phê Việt nam trong thời gian qua.
Chương III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam từ nay đến năm 2005.
93 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Các phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt nam tới năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngành Cà phê là một ngành kinh tế mũi nhọn với Việt nam hiện nay là ngành phát huy được lợi thế so sánh của Việt nam để tham gia vào thương mại quốc tế hiệu quả đem lại nguồn thu ngoại tệ to lớn và giải quyết được việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập cao, góp phần cải thiện môi trường sinh thái. Phủ xanh đất trống đồi trọc, xoá bỏ nạn trồng cây thuốc phiện, khắc phục nạn du canh, du cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Tây nguyên và vùng trung du miền núi phía Bắc. Đảng và Nhà nước ta còn xác định ngành xuất khẩu cà phê là ngành mang tính chiến lượcphục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế quốc dân. Xoá bỏ dân tính độc canh cây lúa. Nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước mà cây cà phê nhanh chóng trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu thứ 2 sau gạo.
Trong thời gian vừa qua ngành cà phê Việt nam đã gặt hái được nhiều thành công trên thị trường thế giới Việt nam trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trế giới sau Brazin. Uy tín của ngành cà phê Việt nam trở thành thành viên của tổ chức cà phê thế giới (ICO) và nhiều lần được Hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê (ACPC) đề nghị ra nhập.
Bên cạnh những thành tựu to lớn như ngành xuất khẩu cà phê đã dành được trong thời gian vừa qua ngành cà phê Việt nam còn rất nhiều hạn chế như chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt nam còn kém, bộ máy tổ chức xuất khẩu cà phê Việt nam hoạt động chưa hiệu quả, ngành cà phê Việt nam còn đang ở tình trạng tự phát trong sản xuất, rối loạn trong xuất khẩu chưa có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhành giữa các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu các chính sách khuyến khích của Chính phủ chưa phát huy được tác dụng vốn thiếu nguyên trọng công nghệ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu, ảnh hưởng của ngành cà phê Việt nam tới thị trường cà phê thế giới còn yếu. Tình hình giá cà phê trên thị trường thế giới biến động phức tạp ta luôn luôn thụ động trước sự biến động đó… tất cả các yếu tố này dẫn đến ngành cà phê xuất khẩu của Việt Nam hoạt động trong thời gian vừa qua chưa có hiệu quả.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của ngành xuất khẩu cà phê đối với Việt nam và nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ đảy mạnh CNH - HĐH đất nước. thông qua quá trình thực tập tại Vụ kế hoạch thống kê Bộ Thương mại và quá trình tìm hiểu thông tin về tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt nam thơì gian qua tại Vụ và Trung tâm tư liệu thư viện, đồng thời kết hợp các kiến thức đã được trang bị tại trường em đã quyết định chọn đề tài:
"Các phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt nam tới năm 2005". Mục đích của chuyên đề thực tập này là tổng hợp lại bức tranh toàn cảnh về tình hình sau xuất, chế biến và xuất khẩu của ngành cà phê Việt nam trong thời gian qua. Qua đó phân tích những thành tựu và những mặt hạn chế của ngành Xuất khẩu Cà phê Việt nam. Đồng thời qua dự báo về tình hình biến động cung cầu giá cả Cà phê trên thị trường thế giới kết hợp với quan điểm chú trọng của Đảng trong việc pháthị trường riển ngành xuất khẩu Cà phê . Để tìm ra định hướng đúng đắn cho ngành cà phê Việt nam trong thời gian tới và quá độ đề xuất một giải pháp để giải quyết những khó khăn hạn chế đang còn tồn tại với ngành cà phê Xuất khẩu Việt nam.
Kết cấu của chuyên đề chia làm 3 chương .
Chương I. Các vấn đề lý luận về sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng .
Chương II: Thực trạng xuất khẩu Cà phê Việt nam trong thời gian qua.
Chương III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam từ nay đến năm 2005.
Chương I
Các vấn đề lý luận về sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng
I. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
1. Khái niệm về hoạt động ngoại thương.
Ngoại thương là một bộ phận quan trọng trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, phản ánh mối quan hệ kinh tế của một quốc gia (bao gồm toàn bộ các quan hệ kinh tế của các thành viên thuộc quốc gia đó) với phần còn lại của thế giới trong quan hệ trong đổi hàng hoá. Hoạt động ngoại thương có một quá trình lịch sử phát triển của nó từ đơn giản đến phức tạp cùng với sự phát triển của văn minh loài người.
Hình thức sơ khai của hoạt động ngoại thương là trao đổi hiện vật, mang tính ngẫu nhiên ngày nay hoạt động ngoại thương lấy tiền tệ làm môi giới trung gian, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá.
Hoạt động ngoại thương là hoạt động mang tính khách quan vì nó bị chi phối bởi xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Theo xu hướng này mọi quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Mức độ phụ thuộc ngày càng chặt chẽ cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Không một quốc gia nào tồn tại độc lập, riêng rẽ vì không một quốc gia nào có đủ nguồn lực để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước buộc các nước phải hội nhập, mở cửa với bên ngoài.
Hoạt động ngoại thương làm tăng khả năng thương mại của một quốc gia. Phân bố lực lượng sản xuất giữa các quốc gia có sự khác nhau. Các quốc gia có lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn, trình độ khoa học công nghệ … khác nhau. Chính sự khác nhau dẫn đến có một sự chênh lệch lớn về chi phí sản xuất để sản xuất ra các hàng hoá, các sản phẩm. Hoạt động ngoại thương giúp cho các nước hợp tác chặt chẽ với nhau trong sản xuất. Chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi quốc tế, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động trong từng quốc gia, làm cho hai bên cùng có lợi.
Mặt khác, ngoại thương làm mở rộng thị trường, phát triển thị hiếu của nhân dân thông qua việc trao đổi sản phẩm giữa các nước trên thế giới.
Như vậy hoạt động ngoại thương là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc ngang giá, được thực hiện thông qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Trong đó hoạt động xuất khẩu được hiểu là việc mang hàng hoá và dịch vụ bán ra nước ngoài để thu được tiền hoặc hàng hoá, dịch vụ về. Còn nhập khẩu được hiểu là việc mang những hàng hoá và dịch vụ mua từ nước ngoài về được trả bằng tiền hay hàng hoá, dịch vụ trong nước.
So với các hoạt động trao đổi kinh doanh bằng hàng hoá và dịch vụ trong nước thì hoạt động ngoại thương có đặc điểm khác biệt là:
- Thứ nhất: Hoạt động ngoại thương là hoạt động buôn bán vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, hàng hoá được vận chuyển sang quốc gia khác khi có nhu cầu mua bán. Mọi hoạt động mua bán này được kiểm soát bởi các đơn vị hải quan, cửa khẩu của các quốc gia có tham gia vào hoạt động ngoại thương.
- Thứ hai: Đối tượng tham gia hoạt động ngoại thương bao gồm các cá nhân, các tổ chức, các đơn vị có quốc tịch khác nhau.
- Thứ ba: Đồng tiền trong quan hệ thanh toán trong hoạt động ngoại thương là tiền tệ của 1 bên tham gia hoặc của cả hai bên.
2. Cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương là hoạt động mang tính tất yếu khách quan vì các nước tham gia vào hoạt động ngoại thương đều có lợi.
Ngoại thương đã trở thành nhân tố của tăng trưởng kinh tế đối với các bên tham gia. Vậy vì sao các nước tham gia vào hoạt động ngoại thương lại có lợi, các lý thuyết sau sẽ giải thích rõ về vấn đề này.
2.1. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith
Theo A.Smith một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá sử dụng tốt
nhất tài nguyên của nước mình. Đây là cách giải thích đơn giản nhất về lợi ích của ngoại thương. Lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương là lợi ích thu được do sự chênh lệch về chi phí sản xuất giữa các quốc gia sản xuất cùng một loại sản phẩm nào đó. Khi đó nước sản xuất có chi phí cao sẽ nhập khẩu sản phẩm đó từ nước có chi phí thấp hơn.
Như vậy bản chất của lợi thế tuyệt đối được xét từ hai phía. Đối với nước bán sản phẩm có chi phí thấp hơn sẽ có lợi nhuận cao hơn khi bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước có chi phí sản xuất sản phẩm có chi phí cao sẽ được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại lợi nhuận.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng với các nước đang phát triển.
Do thiếu vốn đầu tư phát triển, trình độ khoa học công nghệ thấp nên chi phí sản xuất các tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị cao. Các nước đang phát triển phải nhập khẩu các tư liệu sản xuất này từ các nước phát triển. Đồng thời xuất khẩu các hàng hoá mà họ có ưu thế về nguồn lao động, từ nguyên liệu thiên nhiên … để sản xuất ra chúng.
2.2. Lợi thế tuyệt đối của D.Ricardo
Hạn chế của lý thuyết tuyệt đối của A.Smith là chỉ giải thích được vai trò của ngoại thương trong trường hợp một nước có lợi thế trong sản xuất sản phẩm, hàng hoá này nhưng không lợi thế bằng nước khác trong việc sản xuất một sản phẩm khác. Còn trường hợp khác một nước có lợi thế hơn nước khác trong sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá đều có thể tham gia trao đôỉ và đều được lợi thì không giải thích được. Kế thừa đồng thời khắc phục những hạn chế trên của A.Smith, D.Ricardo đã cho ra đời lý thuyết lợi thế tương đối.
Nguyên tắc cơ bản để có lợi thế tương đối chính là việc thực hiện cách mạng hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chi phí sản xuất tương đối thấp hơn so với các nước khác. Lợi thế tương đối chứng minh rằng bất kỳ nước nào cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tăng thu nhập.
Sau đây là ví dụ chứng minh rằng các nước sẽ thu được lợi từ hoạt động thương mại bằng sự cách mạng hoá trong sản xuất và xuất khẩu.
Giả sử ta có số liệu sau về chi phí sản xuất ra vải và cà phê của hai nước Việt Nam và Nhật Bản tính bằng ngày công lao động:
Sản phẩm
Chi phí sản xuất (ngày công lao động)
Việt Nam
Nhật Bản
Vải (tấn)
10
8
Cà phê (tấn)
8
5
Như vậy, néu xét về chi phí sản xuất thì hao phí lao động của Việt Nam cao hơn của Nhật Bản trong cả hai mặt hàng. Do đó theo lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nào sang Nhật Bản.
Nhưng theo quan điểm lợi thế tương đối của D.Ricardo, ta tính chi phí cơ hội sản xuất của từng sản phẩm cà phê và thép của Nhật Bản và Việt Nam như ở bảng sau:
Quốc gia
Chi phí cơ hội
Việt Nam
Nhật Bản
Vải
5/4 cà phê
8/5 cà phê
Cà phê
4.5 vải
5/8 vải
Theo bảng trên: Để sản xuất ra 1 tấn vải Việt Nam bị bỏ đi cơ hội sản xuất ra 5/4 tấn cà phê ngược lại để sản xuất được 1 tấn cà phê Việt Nam phải dừng sản xuất 4/5 tấn vải.
Về phía Nhật Bản để sản xuất ra 1 tấn vải chi phí cơ hội là 8/5 tấn cà phê và sản xuất 1 tấn cà phê chi phí cơ hội là 5/8 tấn vải.
Vậy cùng sản xuất 1 tấn vải Nhật Bản phải dừng sản xuất 8/5 tấn cà phê Việt Nam mất 5/4 tấn cà phê suy ra chi phí cơ hội sản xuất 1 tấn vải của Việt Nam (8/5 - 5/4). Vậy Nhật Bản sẽ chuyên môn hoá và xuất khẩu cà phê. Việt Nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải.
Tỷ lệ trao đổi quốc tế là:
5
<
Vải
<
8
4
Cà phê
5
Giả sử tỷ lệ trao đổi quốc tế chính xác là
Vải
<
7
Cà phê
5
Khi Việt Nam sản xuất và xuất khẩu 1 tấn vải thì tỷ lệ trao đổi trong nước là:
Vải
<
5
Cà phê
4
Vậy mỗi tấn vải xuất khẩu của Việt Nam được lãi là
4
-
5
=
3
(tấn Cà phê)
5
4
20
Ngược lại đối với Nhật Bản mỗi tấn cà phê xuất khẩu của họ được lãi là:
5
-
5
=
5
(Tấn vải)
7
8
56
Vậy nếu mỗi nước sản xuất và xuất khẩu 5 tấn sản phẩm thì 5 tấn sản phẩm vải xuất khẩu của Việt Nam được lãi là:
5
x
3
=
3
(Tấn cà phê)
20
4
Và 5 tấn sản phẩm cà phê của Nhật Bản xuất khẩu được lãi:
5
x
5
=
25
(Tấn vải)
56
56
Bây giờ ta tiếp tục xét sự gia tăng về năng lực sản xuất của mỗi quốc gia khi tham gia thương mại quốc tế.
Giả sử quỹ thời gian sản xuất của mỗi nước là 80 ngày công ta có hàm năng lực sản xuất như sau:
2.3. Lý thuyết của Heakscher - Ohlin về lợi thế tương đối.
* Các giả thiết của Heakscher - Ohlin:
- Thế giới chỉ có 2 quốc gia chỉ có 2 loại hàng hoá và chỉ có 2 yếu tố là lao động và tư bản.
- Hai quốc gia sử dụng công nghệ sản xuất hàng hoá giống nhau và thị hiếu của các dân tộc như nhau.
- Hàng hoá này chưa nhiều lao động, hàng hoá chưa nhiều tư bản.
- Tỷ lệ giữa đầu tư và sản lượng của 2 loại hàng hoá trong 2 quốc gia là một hằng số: cả hai quốc gia đều chuyên môn hoá sản xuất ở mức không hoàn hảo.
- Cạnh tranh hoàn hảo trong thị trường hàng hoá và thị trường các yếu tố đầu vào ở cả hai quốc gia.
- Các yếu tố đầu vào di chuyển tự do trong phạm vi quốc gia nhưng bị cản trở trong phạm vi quốc tế.
- Không có chi phí vận tải, không có hàng rào thuế quan và các trở ngại khác trong thương mại giữa 2 nước.
* Nội dung về lợi thế tương đối.
Nếu:
Giá tư bản của quốc gia I
>
Giá thuê tư bản của quốc gia II
Tiền lương của quốc gia I
Tiền lương của quốc gia II
Thì ta coi quốc gia I có sẵn tư bản hơn quốc gia II và quốc gia II có lợi thế về lao động hơn so với quốc gia I.
Ta lấy một ví dụ làm cơ sở như sau:
Việt Nam là quốc gia yếu, kém tư bản hơn so với Đài Loan nhưng sẵn có lao động hơn Đài Loan vì vậy khi có hoạt động ngoại thương giữa 2 nước Việt Nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xã hội những hàng hoá và dịch vụ cần nhiều lao động để sản xuất ra chung hơn là cần tư bản (sản xuất vải).
Còn Đài Loan sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ cần nhiều tư bản hơn là lao động (sản xuất thép)
Nếu chọn phương án chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu như trên giữa 2 nước thì cả 2 nước sẽ được lợi.
Đường giới hạn khả năng sản xuất của 2 nước với mặt hàng vải và thép như sau:
Nếu quy mô sản xuất là 5 tấn
Thép
Thép
Thép
Việt Nam
0
0
Vải
Vải
Đài Loan
3.1. Lý thuyết về đầu tư.
Có nhiều nguyên nhân khiến cho một Công ty thâm nhập ra nước ngoài như khai thác lợi thế về tính không hoàn hảo của các thị trường thâm nhập khi lợi thế cạnh tranh của nó lớn hơn chi phí, do uy tín về nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế quy mô, dễ tiếp cận thị trường, phản ứng cạnh tranh với các hoạt động chi phối ngành công nghiệp hoặc bình quân hoá các lợi thế tương đối hoặc do nhu cầu mở rộng thị trường hoặc khai thác các lợi thế công nghệ, nguồn nguyên liệu sẵn có ở các cơ sở sản xuất khác.
Các nguyên nhân bên ngoài khiến một Công ty quyết định thâm nhập ra nước ngoài là: Các hoạt động cạnh tranh, yêu cầu của khách hàng hoặc các chính sách của Chính phủ.
3.2. Lý thuyết chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm
Sản lượng
Suy giảm triệt tiêu
Phát triển
Chín muồi
bão hoà
Đổi mới
0
Mô hình này chứng minh về động cơ buôn bán giữa các nước. Mô hình trên cho biết giữa 4 giai đoạn phát triển quan hệ trao đổi một hàng hoá nào đó của một nước với các nước khác giai đoạn đổi mới, giai đoạn phát triển, giai đoạn chín muồi, giai đoạn suy giảm và triệt tiêu.
4. Vai trò của ngoại thương đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
4.1. Tác động của ngoại thương đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
Ngoại thương là một nhân tố của tăng trưởng và phát triển kinh tế vĩ mô, là một nhân tố cấu thành nên tổng cầu theo công thức:
AD = C + G + I + NX
NX = EX - IM
Đây là nhân tố ngoại thương phải xuất khẩu rộng của một nước được rút ra từ "cán cân thanh toán quốc tế" trong tài khoản "Cán cân xuất khẩu" của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định.
Tác động của ngoại thương đến tăng trưởng kinh tế thể hiện trong mô hình tổng cung - tổng cầu sau:
PL1
PL0
PL2
AD2
AD0
AD1
0
AD = C + G + I + NX
AD: Tổng cầu của nền kinh tế
AS: Tổng cung
EX: Kim ngạch xuất khẩu
IM: Kim ngạch nhập khẩu
C: Tiêu dùng của dân cư
G: Chi tiêu của chính phủ
I: Tổng đầu tư xã hội
PL: Mức giá chung
Y: Sản lượng
Nếu NX tăng làm cho tổng cầu chuyển từ AD0 đến AD1 dẫn đến sản lượng tăng từ Y0 đến Y1
Nếu NX giảm làm cho tổng cầu dịch chuyển xuống phía dưới từ AD0 đến AD2 sản lượng sẽ giảm từ Y0 đến Y2
4.2. Giữ vai trò của xuất khẩu đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
4.2.1. Khái niệm xuất khẩu:
Xuất khẩu là hoạt động bán những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nước ra nước ngoài trên cơ sở lấy tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền sử dụng để thanh toán là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Kết quả của hoạt động xuất khẩu là làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước xuất khẩu và thay đổi cán cân thanh toán quốc tế theo hướng cơ lợi.
Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn hoạt động mua bán trong nước vì hàng hoá được vận chuyển ra ngoài biên giới quốc gia xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu vô cùng rộng lớn. Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh. Các quốc gia tham gia đều phát triển theo các thông lệ quốc tế. Từ đó hoạt động liên quan đến xuất khẩu thường được tổ chức một cách chặt chẽ trong khu chế xuất.
4.2.2. Vai trò của xuất khẩu với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Xuất khẩu có vai trò lo lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vì hoạt động xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho nhân dân.
4.2.2.1. Xuất khẩu trực tiếp cải thiện cán cân thương mại quốc tế, cán cân thanh toán quốc tế và yếu tố tạo nên tăng trưởng kinh tế.
Như phân tích ở mục 4.1 ta có:
NX = EX - IM
NX: là cán cân thương mại quốc tế.
EX: là kim ngạch xuất khẩu
Nếu EC tăng dẫn đến NX tăng dẫn đến sản lượng tăng. Mặt khác khi xuất khẩu tăng làm cho nguồn ngoại tệ chảy vào trong nước tăng dẫn đến làm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
4.2.2.2. Xuất khẩu làm tăng tích luỹ phát triển sản xuất và tạo nguồn cho nhập khẩu.
Như đã phân tích ở trên xuất khẩu là yếu tố của tăng trưởng kinh tế nếu tăng xuất khẩu làm cho sản lượng quốc dân tăng do đó làm tăng tích luỹ trong nước cho sản xuất.
Theo xu hướng quốc tế hoá nếu kinh tế thế giới các quốc gia trên thế giới lệ thuộc chặt chẽ vào nhau. Không một quốc gia nào tồn tại một cách độc lập riêng rẽ. Các nước phải trao đổi hàng hoá lẫn nhau, không một quốc gia nào có đủ nguồn lực để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng buộc phải nhập khẩu từ nước ngoài. Việc nhập khẩu lấy từ các nguồn vốn như: vốn vay, viện trợ, đầu tư từ nước ngoài và tích luỹ từ xuất khẩu. Nguồn vốn tích luỹ từ xuất khẩu đóng góp đáng kể vì vốn tích lũy từ xuất khẩu dùng cho nhập khẩu không gây ra những ảnh hưởng xấu. Nếu dùng vốn vay để nhập khẩu làm cho nợ nước ngoài tăng. Nguồn viện trợ có hạn, tăng nhập khẩu nhất là nhập khẩu tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất. Như vậy nguồn tích luỹ từ xuất khẩu đã tác động gián tiếp vào tích luỹ sản xuất.
4.2.2.3. Xuất khẩu làm tạo thêm việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Sản phẩm xuất khẩu được tổ chức sản xuất và tiêu thụ chặt chẽ. Công đoạn sản xuất nhiều và phức tạp cần nhiều lao động với trình độ tay nghề khác nhau tạo ra công ăn việc làm nhiều với thu nhập cao, không ngừng cải thiện đời sống người lao động, tăng thu nhập quốc dân. Không những thế việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu còn góp phần làm mở rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất mới (như ngành bổ trợ, ngành phụ, cấp 1, cấp 2 …) thu hút lao động. Có thể nói những ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu mang tầm cỡ là những ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm, trong có cần các ngành sản xuất nó rất được quan tâm phát triển và có một hệ thống tổ chức rất quy mô, sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều ngành khác nhau. Do đó, ngoài việc làm tăng đáng kể thu nhập quốc dân nó còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác đặc biệt là lao động, việc làm, công bằng xã hội …
4.2.2.4. Xuất khẩu là một yếu tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi.
Ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu được đánh giá là ngành có vị trí ngành mũi nhọn và ngành trọng điểm trong quy hoạch và kế hoạch phát triển hệ thống các ngành kinh tế. Vì việc lựa chọn ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu được phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống về nhu cầu thị trường thế giới và các điều kiện trong nước để sản xuất hàng hoá đó khiến cho ngành này được xem như là ngành có khả năng chi phối đối với sự phát triển của nhiều ngành kinh tế quốc dân. Theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và là ngành đang chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP về lâu dài vẫn có khă năng phát triển. Đồng thời những ngành này còn là ngành phát huy ưu thế đất nước, tham gia có hiệu quả trong phân công lao động quốc tế. Như vậy chỉ thông qua hoạt động xuất khẩu mà ta có thể nhận thức được ngành nào là ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm thực sự phát huy được lợi thế so sánh của đất nước. Tham gia có hiệu quả vào phân công lao động thế giới thông qua nhu cầu thị trường thế giới, phân tích khả năng, nguồn lực trong nước từ đó đẩy mạnh phát triển có hệ thống các ngành theo đúng định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng với xu hướng hội nhập quốc tế.
Xuất khẩu tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở:
- Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển như các ngành bổ xung, ngành phụ trợ, các ngành khác có liên quan đến việc làm cơ sở cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu.
- Xuất khẩu phát triển làm mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo cơ hội cho các ngành có lợi thế so sánh phát triển, tiếp cận các lĩnh vực sản xuất hiện đại, tiên tiến.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
4.2.2.5. Xuất khẩu làm tăng quan hệ hợp tác và tham gia ngày càng tích cực hơn vào phân công lao động quốc tế.
Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh. Nhờ có cạnh tranh thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến công nghệ để có thể sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao, tạo ra năng lực sản xuất mới hơn nữa. Hoạt động xuất khẩu gắn liền với quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nước làm cho các nước có cơ hội giao lưu trao đổi hàng hoá, học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế, tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến … Đây là điều kiện tất yếu nâng cao uy tín và vị thế của mình trên trường quốc tế.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán rộng lớn nó có quan hệ với thị trường thế giới vì vậy nó chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố này có thể làm thúc đẩy hoặc hạn chế hoạt động xuất khẩu của một nước. Vì hoạt động xuất khẩu có vai trò rất to lớn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nên ta cần phải nghiên cứu các yếu tố này.
5.1. Các yếu tố văn hoá xã hội.
Các yếu tố văn hoá xã hội sẽ tác động đến thị hiếu người tiêu dùng và do đó sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu hay sự yêu thích được tiêu dùng một loại hàng hoá nào đó. Chẳng hạn như một xu hướng mẫu thời trang nào đó mới ra đời làm cho nhu cầu tiêu thụ loại mẫu thời trang đó trên thị trường thế giới tăng lên. Như vậy các yếu tố văn hoá xã hội bao gồm: lối sống, phong tục tập quán, tôn giáo, ngôn ngữ, thị hiếu tiêu dùng … Từ phân tích trên ta thấy muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh và vị thế của mình cần phải phân tích, nghiên cứu lại yếu tố văn hoá xã hội để tìm ra những xu hướng thay đổi của nhu cầu mới.
5.2. Các yếu tố về pháp luật.
Mỗi quốc gia đều cơ những hệ thống pháp luật điều tiết hoạt động văn hoá - kinh tế - xã hội. Yếu tố pháp luật này cũng chi phối đến cả các hoạt động kinh tế quốc tế. Vì vậy khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sang thị trường nào đó cần phải tìm hiểu các chính sách pháp luật của quốc gia mà mình định kinh doanh.
Các yếu tố pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu:
- Quy định về giao dịch, về hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền bảo hộ trí tuệ …
- Quy định về cạnh tranh, độc quyền.
- Quy định về giá cả, các loại thuế đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng bao bì, tiêu chuẩn sức khoẻ, vệ sinh môi trường.
- Quy định về quảng cáo và hướng dẫn sử dụng.
- Quy định về vấn đề tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch.
Như vậy, các yếu tố pháp luật có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu từ quốc gia này sang quốc gia khác. Nhưng nói chung pháp luật của một quốc gia cũng thay đổi cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội mỗi giai đoạn phát triển khác nhau. Pháp luật có những thay đổi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội mới, phục vụ cho lợi ích quốc gia. Chẳng hạn nhu chính sách bảo hộ mậu dịch chặt chẽ sẽ áp dụng cho giai đoạn đầu để bảo vệ ngành sản xuất "non trẻ". Khi sự cạnh tranh khắc nghiệt từ bên ngoài, những chính sách bảo hộ mậu dịch sẽ giảm dần cùng với sự ngày càng trưởng thành của sản xuất trong nước.
5.3. Các yếu tố chính trị.
Các yếu tố chính trị xem như là các quan hệ chính trị trong nước tại một quốc gia và tổng thể các quan hệ hợp tác và phát triển giữa quốc gia đó với các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác.
Các quan hệ chính trị trong nước phản ánh mức độ thống nhất về lợi ích kinh tế chính trị xã hội của các tầng lớp dân cư trong nước hoặc mức độ xung đột giữa các tầng lớp dân cư. Nếu chính trị trong nước ổn định sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động buôn bán trao đổi giữa các quốc gia diễn ra thuận lợi hơn. Tăng cường hơn nữa mức độ hợp tác quốc tế và tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế.
Trái lại nếu chính trị trong nước mất ổn định, mâu thuẫn dân tộc, xunh đột vũ trang giữa các tầng lớp dân cư sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế, kìm hãm phát triển khoa học kỹ thuật nền kinh tế xã hội hầu như bị co lại với bên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 368.doc