Chuyên đề Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của công ty Cao su Sao vàng Hà Nội

Quá trình lao động sáng tạo ra của cải vật chất của con người đều có tác động đến môi trường xunh quanh theo chiều thuận lợi hoặc không thuận lợi cho đời sống và phát triển của con người. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và những diễn đàn kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu trong những thập kỷ qua đã gây ảnh hưởng rộng lớn, sâu sắc và cơ bản đến điều kiện thiên nhiên và môi trường, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, cân bằng sinh thái đảo lộn, chất lượng môi trường sống suy thoái đồng thời ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất kinh doanh cũng như sức khoẻ của công nhân tại các cơ sở sản xuất.

Vì vậy làm sao để cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trực tiếp lao động có hiệu quả mà không tổn hại đến môi trường của con người? Làm sao để cho cơ sở sản xuất kinh doanh biết được rằng họ thực hiện được các biện pháp bảo vệ môi trường là có hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội?

Đây là việc không dễ dàng, muốn bảo vệ môi trường thì trong quá trình sản xuất kinh doanh các công ty, xí nghiệp phải thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm đòi hỏi chi phí quá lớn mà trong một thời gian dài lợi ích chưa thấy rõ ràng, vì vậy các công ty khi thực hiện các biện pháp này thì chưa thực sự quan tâm vì họ chưa hưởng được lợi ích gì.

Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có những phương pháp hữu hiệu để đánh giá xem các biện pháp bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả cao và đặc biệt quan trọng phải cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thấy được cái lợi của việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và cái hại của việc không thực hiện các biện pháp của việc không thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Xuất phát từ những lý do trên, sau một thời gian thực tập tại công ty cao su sao vàng Hà Nội và tìm hiểu về bảo vệ môi trường tại công ty cùng với sự hướng dẫn của cô giáo Thạc sĩ Lê Thu Hoa và cô Nguyễn thị Lân, Bùi Xuân Ba trong công ty.

Tôi xin chọn đề tài “Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của công ty Cao su Sao vàng Hà Nội” và từ đó đề ra một số giải pháp nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Nội dung chuyên đề bao gồm 3 phần:

Chương 1: Cơ sở lý luận chung

Chương 2: Đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của công ty.

Chương 3: Căn cứ đề xuất một số giải pháp cho việc giảm thiểu, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường.

 

 

doc70 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của công ty Cao su Sao vàng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang Lời nói đầu Quá trình lao động sáng tạo ra của cải vật chất của con người đều có tác động đến môi trường xunh quanh theo chiều thuận lợi hoặc không thuận lợi cho đời sống và phát triển của con người. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và những diễn đàn kinh tế xã hội mang tính chất toàn cầu trong những thập kỷ qua đã gây ảnh hưởng rộng lớn, sâu sắc và cơ bản đến điều kiện thiên nhiên và môi trường, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, cân bằng sinh thái đảo lộn, chất lượng môi trường sống suy thoái đồng thời ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất kinh doanh cũng như sức khoẻ của công nhân tại các cơ sở sản xuất. Vì vậy làm sao để cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trực tiếp lao động có hiệu quả mà không tổn hại đến môi trường của con người? Làm sao để cho cơ sở sản xuất kinh doanh biết được rằng họ thực hiện được các biện pháp bảo vệ môi trường là có hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội? Đây là việc không dễ dàng, muốn bảo vệ môi trường thì trong quá trình sản xuất kinh doanh các công ty, xí nghiệp… phải thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm đòi hỏi chi phí quá lớn mà trong một thời gian dài lợi ích chưa thấy rõ ràng, vì vậy các công ty khi thực hiện các biện pháp này thì chưa thực sự quan tâm vì họ chưa hưởng được lợi ích gì. Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có những phương pháp hữu hiệu để đánh giá xem các biện pháp bảo vệ môi trường đạt được hiệu quả cao và đặc biệt quan trọng phải cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thấy được cái lợi của việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường và cái hại của việc không thực hiện các biện pháp của việc không thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Xuất phát từ những lý do trên, sau một thời gian thực tập tại công ty cao su sao vàng Hà Nội và tìm hiểu về bảo vệ môi trường tại công ty cùng với sự hướng dẫn của cô giáo Thạc sĩ Lê Thu Hoa và cô Nguyễn thị Lân, Bùi Xuân Ba trong công ty. Tôi xin chọn đề tài “Bước đầu đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của công ty Cao su Sao vàng Hà Nội” và từ đó đề ra một số giải pháp nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nội dung chuyên đề bao gồm 3 phần: Chương 1: Cơ sở lý luận chung Chương 2: Đánh giá kinh tế các tác động môi trường do hoạt động của công ty. Chương 3: Căn cứ đề xuất một số giải pháp cho việc giảm thiểu, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Chương 1: cơ sở lý luận chung I. Ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp. 1. Môi trường: Bao gồm các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. 2. Chất thải: Là chất được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt động khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, lỏng, khí hoặc các dạng khác. 3. Chất gây ô nhiễm: Là những nhân tố làm môi trường trở nên độc hại. 4. Ô nhiễm môi trường do chất thải công nghiệp: Ô nhiễm công nghiệp là sự có mặt của một chất ngoại lai trong môi trường tự nhiên dù chất đó có hại hay không, là kết quả của hoạt động công nghiệp, khi vượt quá một ngưỡng nào đó thì chất đó sẽ trở nên độc hại với các thành phần môi trường. 4.1. Ô nhiễm môi trường không khí: 4.1.1. Không khí: Là hỗn hợp gồm khoảng 78% là Nitơ, 21% là ôxy 1% là khí Agon và 0,03% CO2. Ngoài ra nó còn có một lượng nhỏ các khí như: Neon, Heli... ở điều kiện bình thường độ ẩm tuyệt đối hơi nước chiếm 1- 3% thể tích không khí. 4.1.2. Nhiễm bẩn không khí: Là kết quả của sự chứa đựng trong đó một lượng quá lớn các thành phần bình thường, chẳng hạn như CO2 và các phần tử rắn lơ lửng khác ô nhiễm không khí là trong không khí có một chất lạ hoặc có một sự biến đổi quan trọng trong thành phần của không khí gây tác động có hại hoặc gây ra một sự khó chịu (sự toả mùi khó chịu, sự giảm tầm nhìn do bụi). Mặt khác, sự tích luỹ hay phân tán của các chất ô nhiễm trong không khí phụ thuộc vào điều kiện khí tượng. Chất ô nhiễm là một số chất có trong khí quyển ở một nồng độ cao hơn nồng độ bình thường của nó hoặc chất đó thường không có trong không khí. 4.1.3. Ô nhiễm không khí không gây kích thích: Những chất ô nhiễm môi trường không gây kích thích, thường gây ảnh hưởng đến cơ thể sau khi chúng hấp thụ và tích trữ ở một nơi nào đó trong cơ thể. Tính chất của hơi khí hít vào sẽ ảnh hưởng đến tốc độ hấp thụ nó cùng với những yếu tố khác. Mức độ hấp thụ những chất bẩn, không kích thích có thể thay đổi do những yếu tố ngẫu nhiên nhưng sự có mặt đồng thời trong không khí những chất bẩn khác đôi khi có những tác đông kích thích. Thường khi một tác nhân nào đó kích thích phổi sẽ làm tăng tốc độ hấp thụ vào máu những tác nhân gây nhiễm độc khác, trong trường hợp có những chất gây ung thư của không khí tác động lên đường hô hấp thì tính kích thích của thành phần chất nhiễm bẩn khác phụ thêm vào, lại có thể đóng vai trò quan trọng… Trong trường hợp này những tác nhân kích thích của các thành phần chất nhiễm bẩn khác phụ thuộc thêm vào, lại có thể đủ mạnh lại có thể đủ mạnh để gây tê liệt biểu mô có nhung mao của phế quản kéo dài thời gian tiếp tục của các chất gây ung thư trên lớp biểu mô nhậy cảm với các tác động trên ngoài ra vai trò của những tác nhân gây kích thích phụ sau làm bề mặt của tế bào biểu mô làm cho tác nhân gây ung thư như tiếp xúc chặt chẽ với những tế bào nằm ở sâu hơn nhạy cảm ung thư. Phần lớn những chất rắn, lỏng được thải vào môi trường không khí, thường bao gồm những phần tử nhỏ có kích thước đủ lớn dễ lắng ngay xuống đất, phần còn lại có kích thước nhỏ hơn nhiều lắng xuống chậm hơn và phụ thuộc vào chuyển động không khí ví dụ như bụi, hơi. Chính những chất hay chất lỏng này (khí dung) lơ lửng trong một thời gian dài, có thể xâm nhập vào cơ thể cùng với không khí được hít vào. Từ trạng thái khí dung này chỉ có được phần tử có kích thước nhỏ hơn 1 micromet mới có thể tiến sang phế nang được ngoài ra những phần tử có kích thước 1- 0,6 và nhỏ hơn 2 miromet bị giữ lại ở phế nang nhiều nhất. Sự giữ lại những phần tử rắn và lỏng của khí dung phụ thuộc một phần vào tần suất và biên độ hấp thụ cũng như phụ thuộc vào nồng độ tương đối của chất hít vào. Sự hấp thụ những phần tử rắn từ phế nang vào máu được xác định trên cơ sở tính toán hoà tan của chúng vào dịch thể tổ chức bộ mặt của nhu mô phổi gây kích thích. 4.1.4.Ô nhiễm không khí gây kích thích: Mức độ phát sinh kích thích của hơi khí đến đường hô hấp trên, một phần phụ thuộc vào sự hoà tan của chúng vào nước, nếu các hơi khí này hoà tan trong phần chất lỏng của đường hô hấp trên và gây tác động lên cơ quan này, ở đó biểu mô bền vững với tổn thương hơn là những phần nêu ở sau. Tuy nhiên tính chất xâm nhập của các hơi khí này trong nhiều trường hợp được xác định là do sự có mặt của khí dung trong không khí. Vì vậy chính những hơi khí là lúc bình thường không xâm nhập được vào sâu trong khí quản và phế quản có thể hấp thụ được bởi sự có mặt của khí dung nếu đường kính của chúng nhỏ, lúc đó chúng sẽ xâm nhập được vào sâu trong phế quản và khí quản. Thực tế là do nồng độ cao của những chất thải bẩn khi tác động phối hợp có thể gây ra những biến đổi sinh lượng quan trọng. Do đó, người ta đưa ra khái niệm về tác động thấy được của các chất kích thích ở phổi, theo sự phát sinh của chúng, tác động này không phải do nồng độ trung bình cực đại của hơi khí kích thích. Những nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các hơi khí kích thích đối với phổi người ta được chứng minh bằng hậu quả nghiêm trọng do chúng gây ra. 4.1.5. Ô nhiễm tiếng ồn: Là một hiểm hoạ đến môi trường sống của con người. Tiếng ồn được “thải vào” không khí không những gây ra sự nhiễm loạn sóng ảnh hưởng đến thông tin liên lạc mà còn ảnh hưởng đến thính giác và thần kinh của con người. Vì vậy tiếng ồn cũng được xem như là một yếu tố gây ô nhiễm đe doạ sự lành mạnh của môi trường. Đơn vị đo lường tiếng ồn là deciben (dB) là một đơn vị tương đối dựa trên loga tỷ số của cường độ tiếng ồn (I) và cường độ cưỡng bức (I0). Ngưỡng I0 được tính bằng cường độ tương ứng với áp lực tiếng động 0,0002 mcroba (0,0002dyn/cm3) hay công suất khoáng 10-6 watt. Đại lượng lg (l/l0) là âm lượng của tiếng động được tính bằng ben (1dB= 0,1ben) tiếng động có âm lượng 10, 20 và 100 dB là quá ngưỡng nghe được ứng với 10, 100, 106 lần, con người nghe được âm thanh có tần số khoảng 20 đến 20000 Hz (số dao động âm thanh một giây) và cường độ từ 0 đến 120 dB. Tiếng nói chuyện bình thường trong khoảng 250 đến 10000 Hz. Tác động của tiếng động đối với con người thay đổi tuỳ thuộc vào tần số hay độ cao của tiếng động, cùng một ngưỡng động nhưng tiếng động cao âm nghe “to hơn” tiếng động thấp âm. cường độ 50 dB có thể xem mức độ ngưỡng mà cao hơn nữa sẽ có hại cho ta, các tiếng động bé hơn, thấp hơn mức độ gây hại cũng có những tác động gây nên trạng thái khó chịu. Khi tiếng động các khu nhà ở từ 30 đến 35 dB đã làm cho con người ở một mức nào đó bị ảnh hưởng. Khi tiếng ồn lên tới 50 dB bắt đầu đòi hỏi có biện pháp ngăn chặn. Những hiện tượng tổ hợp tiếng ồn nhất là tiếng ồn đột ngột, tiếng nổ, thường làm cho con người giật mình hoảng hốt. Những ảnh hưởng của tiếng ồn đến sinh lý của con người được biểu hiện dưới những dạng phản ứng âm thanh đăc biệt ngoài thính giác. Sự mệt mỏi thính giác là biểu hiện đặc hiện từ thời quan trọng do tiếng ồn gây ra, tiếng động của tiếng ồn lên vỏ não làm tăng quá trình ức chế, làm thay đổi hoạt động phản xạ có điều kiện của con người, phá huỷ trạng thái của thần kinh trung ương, làm giảm sút sự tập trung tư tưởng, làm giảm khả năng làm việc, đặc biệt làm giảm độ thông minh của con người. Tiếng ồn ở mức 40 dB thì không ai ngủ được, khi tiếng ồn lên đến mức 50 dB thì giấc ngủ bị ngắt quãng và 60 dB giấc ngủ bay biến mất. Tác động liên tục của tiếng ồn cũng gây lên chứng loét dạ giầy, tiếng ồn cũng là nguyên nhân làm tăng bệnh thần kinh và bệnh tăng huyết áp. Theo nghiên cứu, định mức sinh lý của tiếng ồn như sau: - 40 dB về ban đêm bình thường - 60 dB về ban ngày bình thường - 70- 80 dB mệt mỏi - 90- 101 dB bắt đầu nguy hiểm - 120- 140 dB đe doạ gây nguy hiểm Vì vậy vấn đề làm giảm tiếng ồn và hạn chế tác động tiêu cực cho tiếng ồn gây nên cho con người đang ngày càng trở nên cấp thiết. 4.2. Sự ô nhiễm các nguồn nước do chất thải công nghiệp: Sự ô nhiễm các nguồn nước trên lục địa hiện đại là một trong những vấn đề ô nhiễm trầm trọng nhất, đặc biệt là đối với các nước công nghiệp hoá. ậ Mỹ người ta ước tính rằng 90% lượng nước sông được xem là phương tiện để vận tải các chất thải ra biển. Chỉ một việc chống ô nhiễm Photphat cho vùng Ngũ hồ hàng năm cũng đã tốn hết 500 triệu USD. ậ Liên xô cũ, hơn 400000 km sông ngòi ô nhiễm “mãn tính”. ậ Pháp nơi mà vấn đề về môi trường được quan tâm tương đố sớm, và nhà nước đã đầu tư nhiều cho việc phòng chống ô nhiễm, phần lớn các sông ngòi, đặc biệt là sông lớn như sông Xen, sông Ranh, sông Ron… cũng vẫn luôn luôn ở trạng thái ô nhiễm đáng lo ngại. 4.2.1. Sự ô nhiễm sinh học: Sự ô nhiễm “sinh học” các nguồn nước lục địa bắt nguồn từ việc thải vào sinh quyển các chất thải chứa các hợp chất hữu cơ có thể bị lên men và các tác nhân gây bệnh đồng hành với chúng. Sự ô nhiễm này trước hết làm thoái biến, huỷ hoại các hệ sinh thái nước ngọt. Nước cống chứa các chất thải sinh hoạt, nước thải từ xí nghiệp công nghiệp thực phẩm, các nhà máy thuộc da, các khu chăn nuôi… là nguôn gốc của vô số các hợp chất hữu cơ có thể lên men dưới tác dụng của vi khuẩn và là môi trường phát triển của các loại vi khuẩn, gây bệnh khác nhau. Nếu các nguồn này được đổ thẳng ra sông ngòi mà không qua các bước xử lý cần thiết thì tất cả các yếu tố độc hại kể trên sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, gây ảnh hưởng tổn hại đến phẩm chất của nước. Một trong những hậu quả trực tiếp của sự ô nhiễm nguồn nước bởi các chất hữu cơ có thể lên men là sự giảm hàm lượng ôxy hoà tan hiện tượng này là kết quả sự tác động của các vi khuẩn ưa khí, là các vi khuẩn tham gia vào sự phân huỷ ôxy hoá làm các chất hữu cơ trong nước. Quá trình phân huỷ ôxy hoá các hợp chất hữu cơ tiêu thụ một lượng ôxy tương ứng, lượng ôxy này được gọi là yêu cầu ôxy hoá viết tắt là BOD (Biochernical oxyzen demamd). Trong thực tế, người ta quy ước lấy lượng ôxy tiêu thụ sau 5 ngày, kí hiệu BOD5, làm tiêu chuẩn để đánh giá mức độ ô nhiễm các hợp chất hữu cơ của nguồn nước. Khi sự ô nhiễm của các chất hữu cơ có thể bị lên men là nặng thì nó sẽ gây ra sự mất oxy hoàn toàn và hậu quả là sự chết hàng loạt cá và các động vật khác sống trong nước, những sự cố như vậy thường xẩy ra trong mùa hè, là thời kỳ mà lượng oxy là thấp nhất và hoạt động của vi khuẩn lại mạnh nhất do nước có nhiệt độ cao nhất trong năm. Đối với một số chất hữu cơ không bị phân huỷ bởi vi khuẩn chẳng hạn như: tananh, sự phân huỷ không xẩy ra bằng con đường sinh học mà bằng con đường oxy hoá học. Trong những trường hợp như vậy người ta dùng đại lượng COD, yêu cầu ôxy hoá ( chemical oxyzen demand) để đánh giá mức độ ô nhiễm của nguồn nước. 4.2.2. Sự ô nhiễm hoá học: Về khối lượng cũng như về tác động sinh học thì muối khoáng đóng vai trò chất ô nhiễm chính của nước lục địa. Trước hết sự thải Natriclorua từ các xí nghiệp khai thác mỏ và từ các nhà máy công nghiệp hoá chất làm cho nước trở thành không dùng được trong sinh hoạt hàng ngày của con người (ăn uống, tắm giặt…) tưới cho cây trồng, và ngay cả cho một số công việc thông thường trong công nghiệp như chống nóng, làm nguội máy… Thế mà hàng năm khối lượng của các nhà máy thuộc công ty hoá chất Potasse ở vùng Andat hàng năm cũng đã đổ vào sông Ranh khoảng 7 triệu tấn muối. Các loại phân bón hóa học chủ yếu là phân Nitrat và phân Photphat và phân bón cho các cánh đồng bị nước mưa hoà tan rồi chảy ra sông ngòi cũng là một nguồn ô nhiễm quan trọng đối với lục địa. ậ các vùng nông nghiệp phát triển mạnh người ta nhận thấy rằng tất cả các sông, hồ, và ngay cả các lớp nước ngầm đều chứa các phần tử dinh dưỡng này ở những nồng độ cao bất thường, đặc biệt là ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Theo tiêu chuẩn của tổ chức y tế thế giới, nồng độ tối đa cho phép của ion Nitrat trong nước là 9 ppm, thế mà nước ngầm ở các vùng này đều có nồng độ lớn hơn. Sự dư thừa nitrat có thể gây ra một loại bệnh thiếu máu. ngoài ra, sự dư thừa nitrat có thể đưa đến sự tạo thành Nitrosamin một hợp chất gây ung thư trong đường tiêu hoá. Tuy nhiên, hậu quả đáng lo ngại của sự ô nhiễm nước trên lục địa bởi nitrat và photphat là hiện tượng loạn dưỡng. Ngày nay phần lớn các hồ, và ngay cả các sông nước chảy chậm đã có hiện tượng loại dưỡng mãn tính. Hiện tượng này thể hiện qua sự phát triển của thực vật nổi và cây có hoa thuỷ sinh, do trong nước có quá nhiều muối khoáng dinh dưỡng. Những khối lượng lớn thực vật được tạo thành do hoạt động quang hợp sẽ tích luỹ ở đáy hồ, các vi khuẩn được ưa thích sẽ phân huỷ khối thực vật này qua con đường ôxy hóa và điều đó kéo theo sự tiêu thụ ôxy có trong nước (BOD), nghĩa là làm cạn kiệt oxy trong nước, kết quả là xẩy ra sự chết hàng loạt động vật, nhất là các loại cá quý như cá hồi, loại cá ưa sống trong nước sạch và giầu ôxy. Giai đoạn tiếp theo của sự loạn dưỡng là sự lên men yếm khí của khối thực vật nằm ở lớp sâu dưới đáy. ở giai đoạn này sự phân huỷ sẽ giải phóng ra metan và các khí các khí có mùi khó chịu khác nhau, đặc biệt là H2S và NH3. Ngày nay hầu hết các hồ lớn ở Bắc Mỹ và phần lớn các hồ xung quanh vùng Anpơ đều bị loạn dưỡng ở các mức độ khác nhau. ở Bắc Mỹ, trong thời kỳ 1968- 1986, cái giá của cuộc chiến chống loạn dưỡng ở vùng Ngũ hồ là vào khoảng 10 tỷ USD. Các nguồn nước lục địa còn bị ô nhiễm thường xuyên hay chu kỳ tới các hợp chất hữu cơ hay vô cơ có độc tính cao, trong đó các kim loại này như Cadimi, thuỷ ngân, chì, kẽm và natri, các chất độc công nghiệp như hợp chất của asen, sianua, cromat…Trong số các hợp chất hữu cơ có các chất tẩy rửa tổng hợp, các chất hữu cơ có clo diệt sâu và diệt cỏ, axit phenoxiaxetic… nồng độ cho phép của các chất này trong nước rất bé, thể hiện qua bảng sau: Nồng độ giới hạn một số chất cho phép trong nước (10-6 gam/lít) Chất Nồng độ cho phép Chất Nồng độ cho phép Fe2+ Cd2+ Cu2+ As3+ Ni2+ Hg2+ Pb2+ Cr3+ Cr6+ CN- 0,5 0,01 0,1 0,05 0,1 0,005 0,005 0,5 0,1 0,1 Amin mạch thẳng Butylacrylac Vinylaxetat Hexacloran Đimetylamin Điclophenol Đietyl thuỷ ngân Tiophot Phenol Nitometan 0,07 0,015 0,2 0,02 0,1 0,002 0,0001 0,003 0,001 0,005 4.3. Ô nhiễm chất thải rắn công nghiệp: Nét đặc thù của sự ô nhiễm là sự tồn tại của các chất thải rắn. chất thải rắn bao gồm chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp và chất thải sinh hoạt, trong đó chất thải công nghiệp đóng vai trò quan trọng. Các chất thải công nghiệp có thể có nguồn gốc khác nhau và do đó có bản chất khác nhau. Trước hết đó là các chất thải của ngành khai thác mỏ, các quặng mỏ thường nằm sâu trong lòng đất, do đó để khai thác chúng công việc đầu tiên là bóc đất đá, đôi khi khối lượng đất đá cần phải bóc lớn hơn nhiều khối lượng quặng cần khai thác, tiếp theo quá trình làm giàu quặng sẽ thải ra đất đá và các khoáng vật phụ đồng thời với khoáng vật chính trong quá trình hình thành địa chất, chẳng hạn khi khai thác các quặng kim loại màu thông thường người ta chỉ lấy 1 đến 2% khoáng vật chính cần khai thác, tất cả phần còn lại được xem là chất thải. Khối lượng chất thải trong quá trình khai thác và xử lý sơ bộ các quặng mỏ là vô cùng lớn, do đó trước hết chúng chiếm một diện tích đất lớn làm thu hẹp diện tích rừng và đất trồng trọt. Mặt khác, các cấu tự của chất thải có thể tác động với không khí, nước bị phong hoá hay bị biến đổi dưới tác động của vi sinh vật, trong những trường hợp những sản phẩm được tạo thành là những chất ô nhiễm môi trường xunh quanh. Hoạt động của các ngành công nghiệp cũng nảy sinh ra một khối lượng lớn các chất thải rắn, trong ngành năng lượng, các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than thải ra nhiều chất thải rắn nhất, quá trình đốt than để lấy nhiệt cung cấp cho nồi hơi luôn luôn giải phóng ra tro và xỉ. Tuỳ thuộc vào sản phẩm của than, lượng tro và xỉ dao động trong khoảng từ 10 đến 30% khối lượng than đem đốt người ta đã xây dựng được trong vòng một ngày đêm, một nhà máy nhiệt điện công suất 1 triệu KVA, trung bình tiêu thụ 10 nghìn tấn than và do đó thải ra khoảng 2 nghìn tấn tro và xỉ. Hiện nay có nhiều nhà máy nhiệt điện có lượng chất rắn thải lớn hơn 1 triệu tấn trên một năm. Tro và xỉ của các nhà máy nhiệt điện chứa chủ yếu là SiO2 (40-50%), nhôm ôxít (20-25%), FeO và Fe2O3 (15-20%), CaO (3-5%), MgO (1-2%), TiO2 (1-2%), K2O (1-2%)… Thành phần hoá học của tro phụ thuộc vào thành phần hóa học của than được dùng làm nhiên liệu. Năm 1980 tổng hợp tro và xỉ của các nhà máy nhiệt điện trên thế giới khoảng 2 tỷ tấn. Do nhu cầu năng lượng của thế giới ngày một tăng, trong khi nguồn nguyên liệu chủ yếu cho các nhà máy nhiệt điện vẫn là than đá, người ta cho rằng khối lượng tro và xỉ thải ra mỗi năm lớn hơn khối lượng to lớn này, đòi hỏi những bãi chứa hàng vạn ha. Để giảm bớt diện tích trồng trọt vì lấn chiếm đồng thời giảm sự ô nhiễm môi trường người ta có xu hướng sử dụng năng lượng tro và xỉ này làm phụ gia cho vật liệu xây dựng cấp thấp. Ngành công nghiệp luyện kim và luyện kim màu cũng là những ngành thải ra những lượng lớn chất thải rắn mà điển hình là xỉ lò cao và lò luyện thép. Xỉ lò than cao cũng chứa các oxit của silic, nhôm, canci, magiê và một số kim loại khác, trong đó hàm lượng canxioxit (30-50%) và magieoxit (3-15%) khá cao, rất phù hợp với việc làm phụ da cho vật liệu xây dựng. Các chất thải của ngành công nghiệp hoá học vừa lớn về khối lượng, vừa đa dạng về chủng loại, vừa nguy hiểm về phương diện ô nhiễm môi trường. Khó có thể thống kê hết các chất thải của các quá trình sản xuất hoá học khác nhau. Tuy nhiên qua việc xét vài quá trình chúng ta có thể minh hoạ phần nào đến mức của vấn đề. Một quá trình sản xuất hoá học điển hình là quá trình sản xuất phân khoảng, những sản phẩm chứa các nguyên tố cần thiết cho sự phát triển của cây trồng, người ta cho rằng phân bón quy định khoảng 50% sự gia tăng năng suất trong cây trồng. Một trong những loại phân khoáng quan trọng nhất là phân phốt-phát, thì phân supe-phốt phát được sản xuất với khối lượng lớn nhất và được sử dụng rộng rãi nhất. Như trình bày ở trên, quá trình khai thác và làm giảm quặng Apatit đã thải ra một lượng chất thải lớn, quá trình sản xuất axit Sunfuric đến lượt nó là một quá trình phức tạp hơn nhiều trong đó chất thải lớn hơn nhiều. Trong đó chất thải là xỉ của quá trình nướng quặng Apatit và H2SO4 giải phóng ra một lượng lớn chất thải là CaSO4. Tất cả các chất thải này đều chứa một lượng đáng kể Selen, các kim loại nặng, các hợp chất chứa Flo, những chất ô nhiễm có tính chất cao. Trong số các chất thải này thì chỉ một phần nhỏ CaSO4 được tinh chế và sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau. Phần còn lại được chất đống trong các bãi chứa. Thông thường các chất thải của nghành công nghiệp hóa chất thường chứa axit hay kiềm dư cho nên kho chứa phải là cấu trúc có dạng tường cao, nền ximăng láng bằng vật liệu chống thấm để tránh sự rò rỉ của axit, kiềm và các cấu tử độc hại khác ra bên ngoài và thấm vào lớp nước ngầm. Tuy nhiên trong thực tế nguyên tắc này ít được tôn trọng, nhất là các nước nghèo, vì vậy tác hại ô nhiễm của chất thải với môi trường ngày càng nghiêm trọng. Ngoài các nghành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường chủ chốt nói trên cần phải kể thêm các ngành công nghiệp khác như: nghành chế tạo máy, vải sợi, da, giấy, cao su,…là những nghành cũng đóng góp đáng kể vào việc làm ô nhiễm môi trường. Có thể nói rằng hiện nay tất cả các ngành công nghiệp, kể cả công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp được xem là “sạch” nhất, đều đóng góp làm ô nhiễm môi trường ở các mức độ khác nhau. II. Phân tích tác động đến môi trường. 1. Khái niệm: Việc đánh giá tác động của môi trường đòi hỏi phải nhận định các hoạt động phát triển, phát hiện và phân tích những biến đổi của môi trường, đánh giá định lượng các tác động đến lợi ích, sức khoẻ con người do hoạt động phát triển gây ra.Việc xác định, đặc biệt là lượng hoá những thay đổi chất lượng của các hệ thống tự nhiên và các thể tiếp nhận của con người, động vật…là rất cần thiết, song vô cùng khó khăn phức tạp. Nó đòi hỏi phải thực hiện hàng loạt các phân tích về kỹ thuật và công nghệ, về kinh tế- tài chính, về xã hội. Như có thể trong hình. ảnh hưởng đến các thể tiếp nhận, con người, thực vật, động vật. Trong và ngoài phạm vi ảnh hưởng đến các hệ thống tự nhiên và chất lượng môi trường xung quanh Trong và ngoài phạm vi Các chất tồn dư và ảnh hưởng đến chất lượng môi trường Trong và ngoài phạm vi Hoạt động của con người Đánh giá kinh tế các tác động Các biện pháp quản lý chất lượng môi trường nhằm giảm nhẹ, loại trừ các tác động có hại của các hoạt động phát triển đến chất lượng môi trường xung quanh và thể tiếp nhận Đánh giá kinh tế các giải pháp quản lý chất lượng môi trường Việc phân tích khởi đầu bằng việc phân tích các hoạt động. Ví dụ như một xí nghiệp công nghiệp có một dự án tưới tiêu, một chương trình quản lý rừng mà các hoạt động đó tạo ra các phế thải khác nhau (dưới dạng khí, lỏng hay rắn) các sản phẩm này sẽ tác động đến hệ thống thiên nhiên và môi trường xung quanh. Chất lượng môi trường xung quanh, tới lượt nó sẽ tác động lên các thể tiếp theo, có thể là con người, cây cối, con vật hay vật liệu. Những tác động này có thể hữu hiêụ hay bất lợi, tuy nhiên điều quan trọng và cần thiết là được đánh giá về mặt kinh tế, vì vậy chỉ sau những tác động vật lý được xác định một cách đầy đủ, chính xác rõ ràng. 2. Các cách tiến hành phân tích: -Bảo đảm sự phát triển nhất quán tính hệ thống. Các hệ thống tự nhiên vốn phức tạp và tương tác chặt chẽ với nhau, vì vậy cần được chú ý đến tính hệ thống, tiếp cận một cách có hệ thống đối với các khía cạnh môi trường trong quá trình sản xuất. -Xác định rõ ràng hợp lý các mặt sau. +Giới hạn lãnh thổ của các hoạt động vật chất. +Nội dung của các vấn đề hoạt động phát triển. +Mối quan hệ giữa các thành phần của hệ thống. -Nhận dạng các tác động chính đối với môi trường dựa trên 3 tiêu chuẩn chủ yếu sau: +Độ dài thời gian và diện tích lãnh thổ mà trên đó xảy ra các ảnh hưởng. +Tính cấp bách của các tác động, mức độ suy giảm nhanh chóng và khả năng phục hồi môi trường. +Mức tổn hại không phục hồi được đối với cây cối, động vật, đất, nước. Ngoài ra, còn có các tác động khác như tác động đến môi trường sức khoẻ, sự thay đổi vì khí hậu, tác động tổng hoá khi xem xét riêng từng thành phần cũng như xem xét đồng thời các thành phần của hệ thống. Định lượng các thay đổi của các yếu tố tự nhiên, kinh tế- xã hội do hoạt động phát triển gây ra. Để định lượng trước hết cần đo đạc các tham số liên quan đến chất lượng môi trường. Đánh giá mức độ của hoạt động phát triển đến môi trường, sức khoẻ và phúc lợi của con người trước mắt cũng như lâu dài. 3. Phân tích kinh tế, tài chính và ứng dụng thực tế: - Phân tích kinh tế: Bao gồm phân tích chi phí-lợi ích của các hoạt động phát triển mang lại đối với môi trường. Vì thế, phân tích kinh tế được gọi là phân tích lợi ích-chi phí mở rộng hay phân tích lợi ích-chi phí mở rộng chính là phân tíc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1191.doc
Tài liệu liên quan