Phát triển cơ sở hạ tầng là một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình cải thiện bộ mặt của nền kinh tế. Hiện nay, rất nhiều công trình mới có giá trị được đưa vào thi công. Một công trình xây dựng nếu đầu tư nhiều vào khâu thiết kế, lựa chọn phương án, giám sát chất lượng, chắc chắn sẽ có chất lượng cao. Quan điểm này ngày càng được khẳng định và vì thế, vai trò của các kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn là không thể phủ nhận. Mặt khác, trong xu thế hội nhập với khu vực và thế giới, tất cả các doanh nghiệp trong đó có cả những cá nhân và doanh nghiệp hành nghề thiết kế và tư vấn sẽ gặp không ít cơ hội và thách thức. Thách thức lớn nhất đối với họ là làm sao để biến cơ hội thành hiện thực. Để thực hiện được điều đó, rủi ro mà họ có nguy cơ gặp phải là rất lớn. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn (BHTNNN KTS & KSTV) chính là cái mà các cá nhân và doanh nghiệp hành nghề thiết kế và tư vấn đang tìm kiếm nhằm bảo đảm ổn định về tài chính cho hoạt động kinh doanh của mình. BHTNNN KTS & KSTV ra đời ở Việt Nam để đáp ứng nhu cầu đó, đồng thời góp phần hoàn thiện thị trường xây dựng Việt Nam, tạo điều kiện cho ngành xây dựng phát triển trong tình hình mới.
Là một trong những "điểm nóng" về xây dựng, nhu cầu về BHTNNN KTS & KSTV tại Hà Nội rất lớn. Do đó, sau khi Bảo Việt đưa sản phẩm BHTNNN KTS & KSTV vào thị trường, Bảo Việt Hà Nội là một trong những công ty thành viên triển khai bảo hiểm này tích cực nhất và đã đạt được những thành quả nhất định. Đây là nghiệp vụ có tiềm năng lớn và còn quá mới mẻ, không chỉ đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam mà cả với các cán bộ bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội.
Với mong muốn tìm hiểu về loại hình BHTNNN KTS & KSTV, sau một thời gian thực tập tại công ty Bảo hiểm Hà Nội, em đã lựa chọn đề tài "Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội - Thực trạng và giải pháp."
Chuyên đề này, ngoài phần mở đầu và kết luận, có kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt Hà Nội
Chương III: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt Hà Nội
Do được thực hiện trong điều kiện còn hạn chế về nhận thức thực tế, kinh nghiệm nghiên cứu, và đặc biệt là hạn chế về tài liệu, nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn về chuyên đề này.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn đến Cô giáo - Thạc sỹ Tôn Thị Thanh Huyền đã động viên, khuyến khích và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề. Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn đến các chú, các anh, chị cán bộ tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em thời gian qua.
86 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chuyên đề Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại công ty Bảo hiểm Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Phát triển cơ sở hạ tầng là một phần không thể thiếu trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình cải thiện bộ mặt của nền kinh tế. Hiện nay, rất nhiều công trình mới có giá trị được đưa vào thi công. Một công trình xây dựng nếu đầu tư nhiều vào khâu thiết kế, lựa chọn phương án, giám sát chất lượng, chắc chắn sẽ có chất lượng cao. Quan điểm này ngày càng được khẳng định và vì thế, vai trò của các kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn là không thể phủ nhận. Mặt khác, trong xu thế hội nhập với khu vực và thế giới, tất cả các doanh nghiệp trong đó có cả những cá nhân và doanh nghiệp hành nghề thiết kế và tư vấn sẽ gặp không ít cơ hội và thách thức. Thách thức lớn nhất đối với họ là làm sao để biến cơ hội thành hiện thực. Để thực hiện được điều đó, rủi ro mà họ có nguy cơ gặp phải là rất lớn. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn (BHTNNN KTS & KSTV) chính là cái mà các cá nhân và doanh nghiệp hành nghề thiết kế và tư vấn đang tìm kiếm nhằm bảo đảm ổn định về tài chính cho hoạt động kinh doanh của mình. BHTNNN KTS & KSTV ra đời ở Việt Nam để đáp ứng nhu cầu đó, đồng thời góp phần hoàn thiện thị trường xây dựng Việt Nam, tạo điều kiện cho ngành xây dựng phát triển trong tình hình mới.
Là một trong những "điểm nóng" về xây dựng, nhu cầu về BHTNNN KTS & KSTV tại Hà Nội rất lớn. Do đó, sau khi Bảo Việt đưa sản phẩm BHTNNN KTS & KSTV vào thị trường, Bảo Việt Hà Nội là một trong những công ty thành viên triển khai bảo hiểm này tích cực nhất và đã đạt được những thành quả nhất định. Đây là nghiệp vụ có tiềm năng lớn và còn quá mới mẻ, không chỉ đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam mà cả với các cán bộ bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội.
Với mong muốn tìm hiểu về loại hình BHTNNN KTS & KSTV, sau một thời gian thực tập tại công ty Bảo hiểm Hà Nội, em đã lựa chọn đề tài "Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội - Thực trạng và giải pháp."
Chuyên đề này, ngoài phần mở đầu và kết luận, có kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt Hà Nội
Chương III: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn tại Bảo Việt Hà Nội
Do được thực hiện trong điều kiện còn hạn chế về nhận thức thực tế, kinh nghiệm nghiên cứu, và đặc biệt là hạn chế về tài liệu, nên chuyên đề này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo và các bạn về chuyên đề này.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn đến Cô giáo - Thạc sỹ Tôn Thị Thanh Huyền đã động viên, khuyến khích và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề. Em cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn đến các chú, các anh, chị cán bộ tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em thời gian qua.
Chương I
Những vấn đề cơ bản về
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn
I. sự cần thiết khách quan của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho Kiến trúc sư và kỹ sư tư vấn
Trong cuộc sống, vào một lúc nào đó, mỗi người do bất cẩn có thể gây ra thiệt hại về người hoặc tài sản cho người khác. Khi nạn nhân chứng minh được rằng thiệt hại đó là do lỗi của chúng ta, chúng ta phải có trách nhiệm bồi thường. Bất cẩn có thể hiểu là việc thiếu cẩn thận khi làm một việc gì đó hoặc bỏ qua không làm một việc gì đó. Bất cẩn làm phát sinh trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (sai phạm dân sự) dẫn đến việc khiếu nại đòi bồi thường. Và người bất cẩn phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quyết định của toà án, đó cũng là một việc thoả đáng, hợp tình hợp lý nhằm bảo đảm công bằng cho mọi người trong xã hội. Cho dù một người có thể chứng minh được rằng họ không gây nên thương tích về người hoặc tổn thất về tài sản dẫn đến khiếu kiện thì người đó vẫn có thể phải chịu một số chi phí tư vấn pháp luật hay bào chữa cho vụ kiện. Tất cả những vấn đề rắc rối liên quan đến trách nhiệm như vậy có thể được giải quyết ổn thoả khi một cá nhân hay tổ chức mua loại bảo hiểm trách nhiệm (BHTN) thích hợp. Chính vì vậy, BHTN là một trong những loại bảo hiểm chính có vai trò quan trọng trong kinh doanh và xã hội. BHTN ra đời là để giúp các cá nhân và các tổ chức ổn định cuộc sống và hoạt động của mình khi không may phát sinh khiếu nại trách nhiệm pháp lý.
BHTN có nhiều loại như BHTN của chủ lao động, BHTN sản phẩm, BHTN công cộng... Mỗi loại BHTN có đối tượng bảo hiểm tham gia khác nhau. BHTN nghề nghiệp là loại hình bảo hiểm cho các trách nhiệm phát sinh từ những người hoạt động chuyên môn. Những người làm công tác chuyên môn như bác sĩ, nha sĩ, kế toán, giám định viên hoặc môi giới bảo hiểm... đều có nhiệm vụ đặc biệt là phục vụ cho khách hàng của họ. Tuy nhiên, họ có thể xao lãng hoặc mắc lỗi khi làm việc, hay tư vấn sai về chuyên môn gây nên thiệt hại về tài chính cho khách hàng hoặc bên thứ ba khác. Nếu bị buộc tội về những bất cẩn này và bị khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại, những người hoạt động chuyên môn nói trên phải bảo vệ trước toà, và đơn BHTN nghề nghiệp sẽ thanh toán cho những chi phí pháp lý và tiền bồi thường theo phán quyết của toà án.
Kiến trúc sư (KTS) và kỹ sư tư vấn (KSTV) cũng là những nhà hoạt động chuyên môn, và họ cũng phải có trách nhiệm đối với những thiệt hại mà họ gây ra cho khách hàng khi họ thực hiện công việc chuyên môn của mình. BHTN nghề nghiệp cho KTS và KSTV (BHTNNN KTS & KSTV)là sản phẩm tất yếu của sự phát triển xã hội, điều này đã được khẳng định và ngày càng được khẳng định trong thời đại mới.
Ngoài những tác dụng chung của bảo hiểm như khắc phục hậu quả rủi ro, đảm bảo ổn định đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm (NĐBH), góp phần đề phòng hạn chế các rủi ro có thể xảy ra, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giúp cho mỗi cá nhân, doanh nghiệp yên tâm sản xuất, tính thiết yếu của BHTNNN KTS & KSTV còn thể hiện gắn liền với những đặc điểm của ngành nghề.
Trước hết, hoạt động của KTS và KSTV thường phục vụ đáp ứng cho nhu cầu của các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư các công trình xây dựng hay các dự án công nghiệp. Đó là những tài sản có giá trị lớn, đôi khi là sản nghiệp của nhiều nhà đầu tư góp lại, vì vậy tổn thất xảy ra mà KTS hoặc KSTV phải gánh chịu có thể rất lớn, khả năng tài chính của bản thân họ không thể đáp ứng được.
Giống như các nhà hoạt động chuyên môn khác, yêu cầu chuyên môn cao cũng là khó khăn cho các KTS và KSTV. Các yêu cầu hoàn thiện nghề nghiệp luôn luôn tăng lên, và các rủi ro chuyên môn mới bổ sung vào các rủi ro truyền thống. KTS và KSTV đưa ra giải pháp mà chủ đầu tư yêu cầu, mà đương nhiên luôn phải là giải pháp tối ưu nhất. Nhìn chung, điều này được thực hiện chỉ khi họ thực sự có trình độ, luôn bám sát việc ứng dụng các công nghệ mới trong lĩnh vực của mình bởi vì vật liệu xây dựng và kỹ thuật xây dựng đang luôn luôn biến đổi. Và khi họ sử dụng những vật liệu mới nhất định nào đó, họ phải chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư về việc khẳng định những vật liệu này phù hợp với mục đích đã định. Do mong muốn có được sản phẩm tiện lợi và hiện đại, việc áp dụng cái mới sẽ làm tăng mức độ rủi ro trong hoạt động của các KTS và KSTV. Như vậy, nếu anh ta là một chuyên gia có chuyên môn cao, những yêu cầu đối với anh ta tăng lên, còn nếu bản thân anh ta không được đào tạo một chuyên môn cụ thể đặc biệt nào đó, anh ta phải thuê các chuyên gia nhằm thực hiện những yêu cầu cụ thể của công việc. Ví dụ, khi một nhà máy được chuẩn bị lắp đặt, các toà nhà theo yêu cầu phải được thiết kế, hệ thống đường điện phải được thiết kế, các kế hoạch lắp đặt và các kế hoạch chi tiết cho những mục đích khác nhau phải được lập, kế hoạch mua sắm thiết bị cũng phải được chuẩn bị,... Công việc liên quan tới một dự án lớn như vậy có thể được thực hiện bởi một số lượng lớn các nhà thầu. Thông thường, sẽ có nhiều văn phòng kỹ sư tham gia vào việc lập kế hoạch cho một dự án lớn. Các văn phòng này hoặc là do một văn phòng đại diện thuê, hoặc là do người chủ, nhà tổng thầu hoặc một tập đoàn thuê để làm những công việc đặc biệt. Vì có nhiều hãng hợp tác với nhau, và thông thường vài văn phòng KSTV hợp tác với nhau, những rủi ro là các thiếu hụt hoặc sự chồng chéo trong việc lập kế hoạch sẽ ảnh hưởng đến việc vận hành trơn tru của toàn bộ công việc.
Sự cạnh tranh cũng là một yếu tố làm tăng rủi ro cho các KTS và KSTV. Cạnh tranh có thể diễn ra trong lĩnh vực công nghệ, ví dụ bằng cách áp dụng những thiết kế đơn giản hơn, những vật liệu đơn giản hơn và mới lạ mà có thể chưa được thử cẩn thận... Chủ lao động hoặc tổng thầu khi thuê KTS hay KSTV sẽ cố buộc anh ta phải chịu trách nhiệm ít nhất là theo các điều khoản pháp lý, đôi khi thậm chí còn ngoài những điều khoản này, ví dụ như bằng cách kéo dài các thời hạn, hoặc thậm chí yêu cầu một hình thức bảo đảm nào đó cho việc vận hành chính xác của một máy móc, bất kể có lỗi hay không. Về phần mình, các KTS và KSTV bị sức ép của cạnh tranh, thường quan tâm đến việc hạn chế trách nhiệm chấp nhận được (theo quan điểm của anh ta) giữa tiền công và trách nhiệm của anh ta.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật ngày càng chặt chẽ đòi hỏi nâng cao kiến thức chuyên môn và nghĩa vụ phải thận trọng, mở rộng trách nhiệm của KTS và KSTV dựa trên cơ sở lỗi, đôi khi làm cho loại hình bảo hiểm này trở nên tương tự như là một đảm bảo cho thiết kế hay đảm bảo về chất lượng phục vụ khách hàng. Vì thế, phải thừa nhận rằng BHTN nghề nghiệp cũng sẽ là yêu cầu của các nhà đầu tư đối với KTS và KSTV, và đó là yếu tố làm tăng khả năng cạnh tranh giữa những KTS, KSTV với nhau. Ngược lại, vấn đề cạnh tranh cũng tác động làm tăng vai trò của BHTNNN KTS & KSTV vì các KTS và các KSTV được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm loại này sẽ có ưu thế hơn trong mắt các nhà thầu và các nhà đầu tư.
Thực tế cũng đã chỉ ra rằng các KTS và KSTV ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn ở mọi nơi trên thế giới. Số lượng những vụ kiện trách nhiệm nghề nghiệp trên thế giới trong lĩnh vực này ngày càng tăng. Tất cả những vấn đề trên đã khẳng định sự cần thiết của BHTNNN KTS & KSTV, đặc biệt trong thời kỳ ngành công nghiệp xây dựng và đầu tư cơ bản đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
II. Lịch sử hình thành và phát triển của BHTNNN KTS & KSTV
ở Anh, luật trách nhiệm chủ lao động được ban hành năm 1880 không chỉ khai sinh ra loại hình BHTN chủ lao động mà còn tạo ra nhu cầu về BHTN nghề nghiệp ở rất nhiều ngành nghề. Tuy nhiên, các loại hình BHTN nói chung và BHTN nghề nghiệp nói riêng vẫn bị xem như đi ngược lại chính sách của công chúng với lý do loại bảo hiểm này khuyến khích sự cẩu thả. Ban đầu trình độ giáo dục thấp đã khiến nhiều nạn nhân các vụ tai nạn có thể đã bỏ qua việc khiếu kiện chỉ bởi vì chưa bao giờ họ nhận thức được rằng về mặt pháp lý họ có quyền khiếu nại đòi bồi thường những thiệt hại. Dù vậy, một số vụ khiếu nại thành công thời gian đó đã khuyến khích mọi người tìm cách đòi bồi thường cho nhiều vụ việc khác, khiến BHTN nghề nghiệp trở thành nhu cầu cấp thiết, đặc biệt với những trách nhiệm phát sinh từ việc tư vấn hoặc điều trị mang tính chuyên môn. Nguyên nhân của những khiếu nại lớn về trách nhiệm của người chuyên môn là sự xao lãng, lỗi hay tư vấn sai gây nên thiệt hại về tài chính cho khách hàng hay bên thứ ba khác. Nguyên nhân phát sinh trách nhiệm và bản chất của thiệt hại đã tạo nên rủi ro đặc biệt này và loại BHTN nghề nghiệp riêng biệt thường được bán để bảo vệ cho rủi ro đó. ở Anh, dường như bác sỹ là đối tượng đầu tiên trong số những người hoạt động chuyên môn tìm kiếm những loại bảo hiểm này. Tổ chức "Northern Accident" đã triển khai BHTN của dược sỹ (người bán thuốc) năm 1896 và bán BHTN của luật sư vào đầu thế kỷ 20. Năm 1922, loại BHTN của KTS cũng bắt đầu được bán ở Lloyd's. Trong thế kỷ 20, do quyết định của luật pháp và quyết định của tòa án, trách nhiệm của các nhà chuyên môn nói chung và KTS, KSTV nói riêng đã tăng lên đáng kể. Hơn nữa, những nguy hiểm trong hoạt động của họ ngày càng lớn, vì kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao đã kéo theo giá trị của các công trình và dự án cũng ngày càng lớn, tổn thất nếu có sẽ rất lớn. Chính vì thế, BHTNNN KTS & KSTV vẫn duy trì và ngày càng phát triển.
Tại Việt Nam, Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ) cùng với Thông tư số 137/1999/TT-BTC ngày 19/11/1999 của Bộ Tài chính Hướng dẫn bảo hiểm công trình xây dựng là những văn bản pháp luật có vai trò quan trọng đối với sự ra đời của nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV.
Cụ thể, Chính phủ quy định:
"1- Khi tiến hành đầu tư và xây dựng, chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công trình tại một công ty bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
2- Chi phí bảo hiểm công trình là một bộ phận vốn đầu tư của dự án, được tính trong tổng dự toán (dự toán) công trình được duyệt. Chi phí bảo hiểm tính theo tỷ lệ % so với giá trị công trình.
3- Các tổ chức tư vấn, nhà thầu xây lắp phải mua bảo hiểm cho vật tư, thiết bị, nhà xưởng phục vụ thi công, bảo hiểm tai nạn đối với người lao động, bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3, bảo hiểm sản phẩm khảo sát, thiết kế trong quá trình thực hiện dự án. Phí bảo hiểm được tính vào chi phí sản xuất."
( Trích điều 55 của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng)
"Khi tiến hành đầu tư và xây dựng, các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước phải mua bảo hiểm công trình xây dựng..."
(Trích điểm 1, mục I của Thông tư 137/1999/TT-BTC)
"Các tổ chức tư vấn xây dựng, nhà thầu xây lắp phải mua BHTN nghề nghiệp cho các sản phẩm tư vấn...bảo hiểm tai nạn đối với người lao động, bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba trong quá trình thực hiện dự án. Phí bảo hiểm được tính vào chi phí sản xuất."
(Trích điểm 3, mục I của Thông tư 137/1999/TT-BTC)
"1. Đối tượng bảo hiểm bắt buộc:
- Các dự án có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
- Các sản phẩm tư vấn, vật tư thiết bị, nhà xưởng phục vụ thi công và người lao động của các tổ chức tư vấn và nhà thầu xây lắp trong quá trình thực hiện dự án.
2. Loại hình bảo hiểm:
...
- BHTN nghề nghiệp tư vấn đầu tư và xây dựng thuộc trách nhiệm của các tổ chức tư vấn."
(Trích mục II của Thông tư 137/1999/TT-BTC)
Nhận thấy tiềm năng triển khai BHTNNN KTS & KSTV trong tương lai, các cán bộ phòng Bảo hiểm Cháy và Kỹ thuật Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đã xúc tiến việc nghiên cứu loại hình bảo hiểm này. Cùng với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp nước ngoài, đặc biệt là Công ty tái bảo hiểm Munich Re, Bảo Việt đã áp dụng mẫu đơn BHTNNN KTS & KSTV của Munich Re có sự điều chỉnh, biên soạn lại cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, ngày 5 tháng 11 năm 2001, Bảo Việt đưa ra Quyết định số 3435/2001/BV/QĐ-TGĐ quyết định về việc cho phép các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ thành viên của Bảo Việt triển khai BHTNNN KTS & KSTV.
Nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV là một trong những nghiệp vụ non trẻ nhất tại thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Ngoài Bảo Việt ra, tại Việt Nam đến nay mới chỉ có thêm Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) triển khai nghiệp vụ này.
III. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ BHTNNN KTS & KSTV
1. Một số khái niệm liên quan
Để có thể hiểu đúng, hiểu đơn nghĩa, đầy đủ và thống nhất các vấn đề được đề cập trong chuyên đề này, xin đưa ra một số khái niệm nhằm giải thích rõ nghĩa của một số từ và cụm từ có liên quan.
Kiến trúc sư
Một KTS có thể được coi là một người có chuyên môn trong việc lập kế hoạch/ thiết kế công trình xây dựng hoặc những công việc khác mà ở đó việc lập kế hoạch đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong việc tổ chức sắp xếp theo hợp đồng cho việc xây dựng và trong giám sát công việc và quản lý theo hợp đồng cho tới khi hoàn thành.
ở hầu hết các nước bất cứ ai sử dụng chức danh "KTS" đều phải được đăng ký (nghĩa là phải đạt những kỳ kiểm tra thích hợp hoặc có chứng chỉ phù hợp bảo đảm là một KTS) và việc sử dụng bất kỳ một cái tên hay chức danh bao gồm từ "KTS" mà không được đăng ký sẽ là vi phạm pháp luật.
Kỹ sư tư vấn
Trong khuôn khổ chuyên đề này, từ "kỹ sư tư vấn" được dùng để chỉ những người mà hoạt động của họ có liên quan chặt chẽ với lĩnh vực xây dựng, chẳng hạn kỹ sư kiến trúc, kỹ sư hệ thống điện, sưởi, điều hoà, vệ sinh và chuyên gia về cách ly và cách âm.
Cũng có những KSTV thiết kế dự án công nghiệp, nghĩa là họ không chỉ lập đồ án xây dựng cho một nhà máy mà còn thực hiện những việc liên quan đến trang bị và tổ chức nhà máy như lập kế hoạch cơ bản để lắp đặt hệ thống máy móc; tổ chức quy trình làm việc; tư vấn có liên quan đến hệ thống máy móc cần thiết và hoạt động của nó, và tư vấn các vấn đề về bố trí hoặc việc sử dụng vật tư thích hợp. Tuy nhiên, những hoạt động này dựa trên một quy mô lớn chứ không dựa vào các tiêu chuẩn kỹ thuật, những cái thường có trong lĩnh vực xây dựng mà thông thường người thiết kế tin cậy.
Kỹ sư có thể có vị trí giống như KTS nhưng thường chuyên về dịch vụ và chi tiết kỹ thuật. Ví dụ, kỹ sư dân dụng thường quan tâm đến việc thiết kế và xây dựng đường, cầu, cống, kênh đào, đường sắt, kênh mương...vv.
Thiết kế
Thiết kế là sự phác họa hệ thống về số đo trong cấu trúc công trình, chính xác hơn là tất cả những chỉ dẫn của KTS hoặc KSTV cần thiết cho việc xây dựng công trình, nghĩa là biến ý tưởng thiết kế thành:
Bản vẽ/đồ án (sơ đồ bố trí, bản vẽ cách vận hành, sơ đồ chi tiết của tất cả các loại)
Mô tả rõ ràng loại và số lượng các hạng mục công việc xây dựng để trúng thầu (bỏ thầu, các loại hợp đồng, đặc tính kỹ thuật)
Những chỉ dẫn riêng trên công trường về các hạng mục có thể được mô tả không phải trong bản vẽ, cũng không phải trong các chi tiết kỹ thuật hoặc vẫn chưa được chỉ ra ở đó.
Hình thức chỉ dẫn tuỳ thuộc vào yêu cầu, không có các quy định cố định đặt ra cho tài liệu chỉ dẫn.
Việc thiết kế có thể được chia thành :
a) Xác định cơ sở
Chỉ ra vấn đề.
Tham khảo các khuyến nghị đối với toàn bộ công việc cần thiết.
Trình bày tiêu chí quyết định cho việc lựa chọn của các chuyên gia tham gia vào công tác thiết kế.
b) Chuẩn bị lập dự án (chuẩn bị dự án và lập dự án)
Phân tích cơ sở, phối hợp các mục tiêu, chuẩn bị cho công tác lập kế hoạch.
Lập bản vẽ phác thảo về tất cả những phần thiết yếu của dự án, bao gồm tổng dự toán công trình và báo cáo thuyết minh.
Thảo luận sơ bộ với các cấp chính quyền và các chuyên gia khác tham gia lập kế hoạch xem xét xem việc xây dựng có được cấp phép hay không.
c) Kế hoạch thiết kế
Lập bản vẽ cuối cùng cho dự án thật rõ ràng sao cho sau đó không có gì quan trọng phải thay đổi.
Tổng hợp công việc của các chuyên gia khác tham gia lập kế hoạch, thảo luận về việc cấp giấy phép kinh doanh với các cấp chính quyền.
d) Bản vẽ thi công
Hoàn thiện thiết kế với đầy đủ các kích cỡ và tất cả chi tiết cũng như chỉ dẫn theo yêu cầu cho việc thực hiện dự án.
Lập bản vẽ thiết kế và chi tiết có sự lý giải theo yêu cầu.
e) Chuẩn bị và hoàn thành hợp đồng
Tính toán và biên soạn số lượng làm cơ sở cho việc chuẩn bị các chi tiết kỹ thuật, xem xét tất cả những đóng góp của các chuyên gia khác tham gia vào công tác lập kế hoạch.
Soạn thảo các chi tiết kỹ thuật cùng với các hoá đơn số lượng theo những bộ phận khác nhau.
Phối kết hợp các chi tiết kỹ thuật của các chuyên gia khác tham gia vào công tác lập kế hoạch.
f) Hỗ trợ trong ký kết hợp đồng
Chuẩn bị tài liệu hợp đồng cho tất cả các bộ phận.
Đạt được các yêu cầu.
Xác định và đánh giá yêu cầu.
Phối hợp và khái quát hoá công việc của các chuyên gia tham gia ký kết hợp đồng.
Đàm phán với những người bỏ thầu.
Hỗ trợ ký kết hợp đồng.
Giám sát
Giám sát thi công công trình liên quan đến các chi tiết thiết kế, có nghĩa là:
Giám sát thi công công trình (xem xét xem nó có tuân theo giấy phép hoặc phê chuẩn xây dựng và thực hiện bản vẽ thi công và các chi tiết kỹ thuật có tuân theo tiêu chuẩn kỹ thuật được công nhận và các quy định tương ứng hay không?).
Phối hợp công việc của các chuyên gia khác tham gia giám sát công trình.
Kiểm soát và sửa chữa các chi tiết của những điểm có sẵn.
Chuẩn bị và giám sát kế hoạch làm việc.
Kiểm tra số lượng cùng với các đơn vị thi công.
Chấp nhận việc thi công công trình với sự hỗ trợ từ phía các chuyên gia tham gia lập kế hoạch và giám sát công trình, kể cả các quyết định về sự xuống cấp.
Xem xét các hoá đơn.
Xác định các chi phí.
Đăng ký để có được sự chấp nhận của chính quyền và hỗ trợ trong các thủ tục tương ứng.
Hoàn thiện công trình, bao gồm biên soạn và chuyển giao các tài liệu theo yêu cầu, ví dụ như các chỉ dẫn hoạt động, các tài liệu thử nghiệm.
Liệt kê theo danh sách về các giai đoạn bảo hành.
Giám sát việc dỡ bỏ các thiếu sót được xác định trong khi công nhận công trình xây dựng.
Kiểm soát chi phí.
Nghiên cứu khả thi
Nói chung lĩnh vực hoạt động này phần lớn bao gồm hai bước đầu tiên được vạch ra trong "Thiết kế", nghĩa là a) Xác định các cơ sở và b) Chuẩn bị lập dự án (chuẩn bị dự án và chuẩn bị lập kế hoạch).
Về cơ bản, nó được mô tả rõ nhất bằng thuật ngữ "phân tích" và "tổng hợp".
Phân tích
Mục đích cơ bản của bước đầu tiên là nhận diện, phân tích, khẳng định và tổ chức các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển khái niệm thiết kế. Để thực hiện nhiệm vụ này, dữ liệu từ việc phân tích tính khả thi kinh tế, lập chương trình và phân tích địa điểm phải được thực hiện và tổ chức thành một mẫu cho phép sử dụng trong việc thiết kế dự án tương ứng.
Những tài liệu này trong những trường hợp ngẫu nhiên có thể được người chủ cung cấp hoặc được người tư vấn hay KTS/KSTV phát triển trong quá trình cung cấp dịch vụ phân tích trước khi thiết kế hoặc phân tích địa điểm.
Tổng hợp
Tổng hợp là việc kết hợp tất cả các thực tế có trong phân tích vào một giải pháp thống nhất hoặc các giải pháp có thể, mà cuối cùng nó cho phép chủ đầu tư quết định việc thực hiện dự án.
Khảo sát số lượng và chất lượng
Là một quy định riêng, việc này bao gồm các hoạt động sau, trong đó có một số hoạt động đã được mô tả trong phần "Thiết kế" và " Giám sát":
Dự toán chi phí và các chi tiết thiết kế thi công.
Chuẩn bị hóa đơn về các chi tiết thiết kế thi công.
Đưa ra chi phí sơ bộ và lập kế hoạch chi phí.
Lập hồ sơ dự thầu.
Kiến nghị loại hợp đồng.
Kiến nghị về việc trúng thầu.
Thoả thuận với các chủ thầu.
Đánh giá công việc đang tiến hành.
Kiểm soát chi phí và lập các báo cáo tài chính.
Thanh toán chi phí xây dựng cuối cùng với các nhà thầu và nhà thầu phụ.
2. Đối tượng bảo hiểm và đối tượng tham gia bảo hiểm
Một trong những đặc điểm của BHTN là đối tượng bảo hiểm rất trừu tượng, vì đó là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại. Đối tượng bảo hiểm của BHTNNN KTS & KSTV cũng không nằm ngoài đặc điểm đó.
BHTNNN KTS & KSTV được thiết kế cho những người thực hiện các công việc lập kế hoạch, tư vấn và giám sát trong lĩnh vực xây dựng. Vì thế, các KTS và kỹ sư dân dụng là những đối tượng chính mua loại hình bảo hiểm này. Ngoài ra, còn có các KSTV thuộc các lĩnh vực khác mà công việc của họ cũng liên quan mật thiết đến ngành xây dựng: các chuyên gia thống kê, các kỹ sư điện, kỹ sư lắp đặt hệ thống sưởi, điều hoà, thiết bị vệ sinh và các chuyên gia về cách âm.
BHTNNN KTS & KSTV áp dụng cho đối tượng tham gia là các cá nhân và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kiến trúc, tư vấn, giám sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi..., kể cả các công ty thiết kế, tư vấn liên doanh với nước ngoài, các công ty thiết kế, tư vấn 100% vốn nước ngoài. Dưới đây sẽ sử dụng chung thuật ngữ "các doanh nghiệp hành nghề thiết kế và tư vấn".
ở Việt Nam, BHTNNN KTS & KSTV áp dụng bắt buộc đối với các dự án đầu tư bằng các nguồn vốn sau:
- Vốn ngân sách Nhà nước
- Vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh
- Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- Vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này là trách nhiệm pháp lý của các doanh nghiệp hành nghề thiết kế và tư vấn trước những tổn thất hoặc bất kỳ khiếu nại nào phát sinh do lỗi, thiếu sót hoặc sự bất cẩn của NĐBH hoặc nhân viên của NĐBH trong khi thực hiện công việc chuyên môn của mình.
3. Phạm vi bảo hiểm
Như đã đề cập ở trên, BHTNNN KTS & KSTV ra đời với mục đích hỗ trợ các cá nhân, tổ chức về tài chính khi phát sinh các trách nhiệm pháp lý mà họ phải bồi thường theo phán quyết của toà án. Các công ty bảo hiểm khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này đều quy định phạm vi được bảo hiểm và cả những điểm cần loại trừ một cách rõ ràng. Các quy định này được đưa ra, một mặt buộc các đối tượng tham gia bảo hiểm phải phát huy tinh thần trách nhiệm để đề phòng, hạn chế các rủi ro mà họ có thể gặp phải, mặt khác tránh cho các công ty bảo hiểm khỏi những tổn thất từ việc trục lợi bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm nhìn chung được xác định dựa vào rủi ro xảy ra thuộc rủi ro được bảo hiểm hay nằm trong phạm vi loại trừ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100855.doc