Chương trình phát triển nguồn nhân lực chuẩn bị cho hội nhập

Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững.

Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng của quá trình đầu tư phát triển của xã hội. Tuy nhiên nguồn lực này lại đặc biệt hơn các nguồn lực khác ở chỗ, đây là nguồn lực tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội nhưng cũng lại chính là đối tượng tiêu dùng những sản phẩm đó. Hơn nữa, tài nguyên con người là nhân tố cần có cách quản lý và khai thác khác hẳn so với những tài nguyên khác. Vì vậy, vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng mang nhiều đặc điểm khác biệt so với hoạt động đầu tư phát triển nói chung. Việc nghiên cứu về đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng là một trong những vấn đề cần thiết cấp bách, vì vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với xã hội (vĩ mô) nói chung, và sự sống còn của các doanh nghiệp (vi mô) nói riêng.

Hơn nữa, Việt Nam vừa mới tham gia WTO trong điều kiện vẫn chưa hoàn thiện nền kinh tế thị trường, vấn đề phát triển nguồn nhân lực cũng đang được đặt ra cấp bách để đáp ứng được những yêu cầu của thế giới, của quốc gia về một đội ngũ lao động chất lượng cao, tay nghề giỏi để có thể xây dựng nền kinh tế nước ta thêm mạnh mẽ vững chắc. Vì vậy, đầu tư phát triển nguồn nhân lực cần có những đổi mới theo chiều hướng đúng đắn. Trong quá trình này, con gười luôn chiếm vị trí trung tâm, là đối tượng và mục tiêu phát triển.

Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người.

Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia. Và hoạt động này ở Việt Nam trong thời gian qua có những gì nổi bật, và nước ta cần có những cải cách gì đối với hoạt động này để có thêm sức mạnh khi tham gia hội nhập với thế giới.

 

doc44 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1011 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chương trình phát triển nguồn nhân lực chuẩn bị cho hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình phát triển nguồn nhân lực chuẩn bị cho hội nhập MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một '' tài nguyên đặc biệt '', một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng của quá trình đầu tư phát triển của xã hội. Tuy nhiên nguồn lực này lại đặc biệt hơn các nguồn lực khác ở chỗ, đây là nguồn lực tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội nhưng cũng lại chính là đối tượng tiêu dùng những sản phẩm đó. Hơn nữa, tài nguyên con người là nhân tố cần có cách quản lý và khai thác khác hẳn so với những tài nguyên khác. Vì vậy, vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng mang nhiều đặc điểm khác biệt so với hoạt động đầu tư phát triển nói chung. Việc nghiên cứu về đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng là một trong những vấn đề cần thiết cấp bách, vì vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với xã hội (vĩ mô) nói chung, và sự sống còn của các doanh nghiệp (vi mô) nói riêng. Hơn nữa, Việt Nam vừa mới tham gia WTO trong điều kiện vẫn chưa hoàn thiện nền kinh tế thị trường, vấn đề phát triển nguồn nhân lực cũng đang được đặt ra cấp bách để đáp ứng được những yêu cầu của thế giới, của quốc gia về một đội ngũ lao động chất lượng cao, tay nghề giỏi để có thể xây dựng nền kinh tế nước ta thêm mạnh mẽ vững chắc. Vì vậy, đầu tư phát triển nguồn nhân lực cần có những đổi mới theo chiều hướng đúng đắn. Trong quá trình này, con gười luôn chiếm vị trí trung tâm, là đối tượng và mục tiêu phát triển. Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia. Và hoạt động này ở Việt Nam trong thời gian qua có những gì nổi bật, và nước ta cần có những cải cách gì đối với hoạt động này để có thêm sức mạnh khi tham gia hội nhập với thế giới. Chương 1: MỘT SỐ HIỂU BIẾT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC I. Nguồn nhân lực 1. Khái niệm nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội thì nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư trong xã hội có khả năng lao động. Với tư cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế- xã hội thì nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội. Với tư cách là tổng thể cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động thì nguồn nhân lực bao gồm cả yếu tố thể lực và trí lực của những người từ 15 tuổi trở lên. Định nghĩa trên mới phản ánh về mặt số lượng chưa nói lên mặt chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên các khía cạnh: sức khỏe, trình độ học vấn, kiến thức, trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm tích lũy được, ý thức tác phong của người lao động. Từ những quan niệm trên có thể tổng quát lại: Nguồn nhân lực hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu lao động. 2. Các chỉ tiêu đánh giá nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực ở đây được biểu hiện qua hai khía cạnh là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, vì vậy để đánh giá nguồn nhân lực thì chúng ta có hai nhóm chỉ tiêu sau. 2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá số lượng nguồn nhân lực. Có nhiều chỉ tiêu để đánh giá số lượng nguồn nhân lực nhưng tiêu biểu thì người ta hay dùng các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ nguồn nhân lực trong dân số. - Tỷ lệ lực lượng lao động trong dân số - Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người trong độ tuổi lao động. - Tỷ lệ lao động có việc làm trong lực lượng lao động. 2.2. Các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu sau: 2.2.1. Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực. Một người có sức khoẻ không đơn thuần là người đó không có bệnh tật. Sức khoẻ theo định nghĩa chung nhất chính là trạng thái thoải mái về vật chất, tinh thần, là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Chúng ta có thể đánh giá tình trạng sức khoẻ qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau: - Tuổi thọ bình quân. - Chiều cao và cân nặng trung bình của người lao động. - Chỉ tiêu phân loại sức khoẻ. - Chỉ tiêu dân số trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động và suy giảm sức khoẻ. - Một số chỉ tiêu cơ bản về y tế, bệnh tật: tỉ suất chết, tỉ suất dân số trong độ tuổi bị mắc HIV/AIDS… 2.2.2. Chỉ tiêu trình độ văn hoá của nguồn nhân lực. Đây là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội, phản ánh mà nguồn lao động cung cấp cho xã hội trong thời kỳ mới – thời kỳ hội nhập. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kĩ thuật vào thực tiễn. Những chỉ tiêu đó là: - Tỉ lệ người lớn biết chữ. - Tỉ lệ đi học chung. - Tỉ lệ đi học ở các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. 2.2.3. Chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kĩ thuật của nguồn nhân lực. Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó (nó biểu hiện trình độ đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học), có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng: - Tỉ lệ cán bộ tổ chức. - Tỉ lệ cán bộ cao đẳng, đại học - Tỉ lệ cán bộ trên đại học. 2.2.4. Chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index ) HDI là thước đo tổng hợp về sự phát triển con người trên ba phương diện sức khoẻ, tri thức và thu nhập. Ba chỉ tiêu thành phần phản ánh các khía cạnh sau: - Một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình. - Kiến thức được đo bằng tỉ lệ người lớn biết chữ (với quyền số 2/3) và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3) Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng xã hội. 3. Phương pháp đánh giá nguồn nhân lực. Phương pháp đánh giá nguồn nhân lực là những cách thức, biện pháp khác nhau được sử dụng trên cơ sở những chỉ tiêu, chỉ số nhất định để từ đó có những nhận xét, kết luận về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực hiện có cũng nhiều khả năng sẽ có trong tương lai dự định. Theo phương pháp quản lý nguồn nhân lực mới, lấy con người làm trung tâm thì để đánh giá nguồn nhân lực các nhà quản lý cần dựa trên hệ các chỉ số như: - Mục tiêu, mức độ đạt được mục tiêu của tổ chức cũng như của các cá nhân thành viên của tổ chức và các biện pháp, cách thức đã thực hiện để đạt mục tiêu đề ra. Chỉ số này được các nhà khoa học gọi là chỉ số mục tiêu (index of objectivepoint). Theo chỉ số này các tổ chức phải đặt ra mục tiêu phát triển và mỗi cá nhân trong tổ chức cũng đặt ra mục tiêu phát triển và thực hiện để trên cơ sở đó thực hiện việc đánh giá; - Chỉ số công việc (index of job). Chỉ số này được hình thành trên cơ sở sự phân tích công việc (job analysis) theo đó có bảng mô tả công việc với các chỉ số căn bản như nhiệm vụ (task), chức trách (responsibility), yêu cầu của công việc (demand of job). Khi đánh giá nhà quản lý sẽ sử dụng các chỉ số để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của nhân viên từ đó đưa ra kết luận; - Chỉ số bổ sung (additional index). Các chỉ số này bao gồm tinh thần trách nhiệm, tính chấp hành kỷ luật, phong cách hành động.v.v...nói chung so với các chỉ số mục tiêu và công việc thì các chỉ số này tính xác định hạn chế hơn do vậy chúng được xếp vào hệ các chỉ số bổ sung. Từ việc đánh giá nguồn nhân lực của mình như thế nào thì các công ty, doanh nghiệp sẽ đưa ra kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực của mình sao cho phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế trong nước cũng như quốc tế sao cho hòa hợp. II. Thực trạng nguồn nhân lực tại Việt Nam hiện nay 1. Kết cấu nguồn nhân lực: 1.1 Cơ cấu nguồn nhân lực theo tuổi Nước ta là một nước thuộc loại dân số trẻ. Số lao động trong độ tuổi từ 15 - 44 chiếm gần 80% lao động độ tuổi trên 60 chiếm khoảng 3% tổng lao động của cả nước. Nguồn nhân lực của nước ta rất dồi dào và đang ngày càng tăng nhanh. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi 15- 34 và độ tuổi trên 60 thì có xu hướng giảm còn độ tuổi từ 35- 59 lại có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, sự thay đổi này là rất nhỏ không đáng kể. Từ năm 2007, cơ cấu dân số nước ta bước vào giai đoạn "cơ cấu dân số vàng" với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt giá trị cực đại và tỷ lệ dân số phụ thuộc dưới 50%. Giai đoạn "cơ cấu dân số vàng" dự báo kéo dài 15 năm, từ 2007 đến 2012, đây là khoảng thời gian ngắn so với nhiều nước trên thế giới. Đến năm 2015, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt giá trị cực đại, chiếm tới 68,2% dân số, theo đó có 63,4 triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng số 94,3 triệu dân. Đồng thời, số người bước vào tuổi lao động mỗi năm là 1,6 triệu người khiến nhu cầu về giải quyết việc làm tăng. Do vậy, giải quyết việc làm và sử dụng có hiệu quả, đào tạo nguồn lao động đạt yêu cầu sẽ là một thách thức đối với nền kinh tế nước ta trong những năm tới. Bảng 1 Cơ cấu nguồn nhân lực theo nhóm tuổi, giới tính và tỷ số giới tính (Nam/100 nữ), năm 2006 - 2007 . Đơn vị: người Nhóm tuổi 2006 2007 Nam Nữ Tổng số Tỷ số giới tính Nam Nữ Tổng số Tỷ số giới tính 15-19 11,33 10,28 10,80 106,5 11,25 10, 18 10,71 106,8 20-24 8,93 8,65 8,79 99,7 8,84 8,54 8,69 96,9 25-29 7,82 3,37 7,79 97,2 7,67 7,65 7,66 97,6 30-34 7,78 7,67 7,72 97,9 7,75 7,68 7,71 98,7 35-39 7,70 7,55 7,62 98,6 7,73 7,57 7,66 97,9 40-44 7,32 7,28 7,30 97,2 7,56 7,47 7,51 95,0 45-49 6,36 6,38 6,37 96,3 6,38 6,49 6,44 85,8 50-54 4,42 5,17 4,80 82,5 4,92 5,54 5,23 83,6 55-59 3,07 3,53 3,30 84,0 3,18 3,68 3,43 80,5 60-64 1.96 2,40 2,19 79,0 2,06 2,47 2,27 73,6 1.2. Cơ cấu nguồn lao động theo giới tính. Đến nay, tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải quyết việc làm đã tăng lên và có khả năng vượt chỉ tiêu kế hoạch. Theo Điều tra lao động - việc làm ngày 1/8/2007 của Tổng cục Thống kê, năm 2005, lao động nữ chiếm khoảng 21,14 triệu người trong tổng số lao động của nền kinh tế quốc dân (48,6% so với 43,45 triệu lao động), đến 8/2007 đã tăng lên khoảng 22,77 triệu người (49,4% so với tổng số trên 46,11 triệu lao động). Chênh lệch lao động sau 2 năm 2006 – 2007 tương ứng với số lao động được giải quyết việc làm mới là 2,76 triệu người (trong đó, lao động nam là 1,08 triệu người và lao động nữ là trên 1,67 triệu người), bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 1,33 triệu người, trong đó, lao động nữ là 835 nghìn người.  Theo đánh giá tổng quan, nếu mức độ ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu là thấp, khả năng đến cuối năm 2010, lao động nữ sẽ đạt và vượt chỉ tiêu 50% lực lượng lao động của cả nước. Tuy nhiên, vấn đề quan tâm hiện nay là chất lượng công việc của lao động nữ vì chủ yếu các chị em vẫn chiếm số đông ở những lĩnh vực không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao, có thu nhập thấp và việc làm bấp bênh, độ rủi ro cao. Trong các ngành nghề đã có sự chuyển dịch lớn về cơ cấu lao động, nhưng vẫn thể hiện sự bất bình đẳng về giới, thể hiện qua tỷ lệ lao động nữ trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp dù có chiều hướng giảm nhưng xét về cơ cấu giới thì vẫn còn rất cao. Lao động nữ chiếm tỷ lệ tương đương với lao động nam trong lực lượng lao động của cả nước. Tuy nhiên, thì tỷ lệ lao động nữ tham gia vào hoạt đông kinh tế lại ít hơn so với lao động nam (77,4% so với 81,9%) và nhất là ở khu vực thành thị thì khoảng cách chênh lệch tỷ lệ này là rất cao (tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế là 67,3% trong khi tỷ lệ nam là 76,6%) Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, thời gian qua tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đã giảm được đáng kể từ 4,82% năm 2006, xuống còn 4,64% năm 2007 và ước năm 2008 là 4,65%. Tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp khu vực thành thị giảm từ 5,25% năm 2006 xuống còn 5,1% năm 2007 và năm 2008. Như vậy để có thể phát huy hết nguồn lực phát triển đất nước thì cần phải có giải pháp để tăng tỷ lệ lao động nữ tham gia vào hoạt động kinh tế, và giảm tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ cũng như tỷ lệ thất nghiệp chung của lao động cả nước nhằm tận dụng hết nguồn lực bên trong, phát triển đất nước. 1.3 Cơ cấu nguồn lao động theo trình độ học vấn. Trình độ học vấn và dân trí của nước ta hiện nay là khá cao nhờ phát triển mạnh nền giáo dục và coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đây là chìa khoá quan trọng để tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Quy mô giáo dục vẫn không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Số lượng trường cấp II và cấp III tăng nhanh theo thời gian, cùng với sự gia tăng của trường công lập thì số lượng trường ngoài công lập cũng không ngừng tăng lên. Cho thấy là nước ta đã hình thành được một hệ thống trường học đa dạng về hình thức nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, cũng như đã khai thác được triệt để hơn các nguồn lực trong nhân dân, phục vụ cho công tác đào tạo nước ta ngày càng tốt hơn. Không chỉ quy mô hệ thống trường học tăng lên mà quy mô học sinh trong các cấp học cũng không ngừng tăng lên, phản ánh nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân. Trong đó thì số học sinh nữ cũng tăng qua các thời kỳ cho thấy sự bình đẳng giới trong xã hội đã được quan tâm, chú ý nhiều hơn vào việc đào tạo lao động nữ. Tổng số học sinh tốt nghiệp cũng tăng qua các năm làm cho lượng lao động có trình độ học vấn ngày càng tăng lên. Trình độ học vấn: đến năm 2008, tỷ lệ lao động chưa biết chữ là 4%, chưa tốt nghiệp tiểu học là 12,01%, tốt nghiệp tiểu học là 28,34%, tốt nghiệp THCS là 32,08% và tốt nghiệp THPT là 23,56%. Tuy nhiên tỷ lệ tốt nghiệp này là chưa cao chỉ khoảng 28% trong tổng số học sinh. Có thể thấy là chất lượng giáo dục vẫn chưa cao, phương pháp giảng dạy vẫn chưa được tốt nên học sinh ít chú trọng vào việc học tập, và chất lượng quá trình học tập cũng không được cao. Dẫn đến tình trạng tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ học vấn vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy để nâng cao chất lượng giảng dạy thì cần phải có biện pháp nhằm làm cho học sinh chú tâm nhiều hơn vào việc học, thích thú hơn với việc học tập và quan trọng nhất là phải giáo dục cho họ ý thức được tầm quan trọng của việc học tập rồi từ đó mà tự giác học tập. Có vậy mới nâng cao được chất lượng giáo dục đào tạo để đưa nguồn nhân lực trẻ này sau khi ra trường có thể đáp ứng được các yêu cầu của một đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. a. Đào tạo chính quy - Học trẻ em trường lớp Mầm non : 3.057.718 - Học sinh tiểu học : 6.850.567 - Học sinh Trung học cơ sở : 5.859.526 - Học sinh trung học phổ thông : 3.070.023 - Học sinh học nghề ngắn hạn : 1.268.150 - Học sinh học nghề dài hạn : 1.400.000 - Học sinh cao đẳng nghề : 39.4350 - Học sinh trung cấp chuyên nghiệp chính quy : 614.516 - Sinh viên cao đẳng chính quy : 400.000 - Sinh viên Đại học chính quy : 1.200.000 b. Đào tạo không chính quy - Học viên các lớp chống mù chữ : 34.494 - Học viên bổ túc Tiểu học : 40.130 - Học viên bổ túc Trung học cơ sở : 119.981 - Học viên bổ túc Trung học phổ thông : 346.717 - Học viên các lớp tin học : 207.240 - Học viên các lớp ngoại ngữ : 268.812 - Học viên theo học từ xa : 127.758 - Học viên các lớp chuyên đề : 9.215.116 - Học viên các lớp dạy nghề ngắn hạn tư nhân : 173.720 - Học viên Trung cấp chuyên nghiệp tại chức : 207.240 - Học viên học Cao đẳng tại chức : 65.988 - Học viên học Đại học tại chức : 410.753 c. Giáo dục dành cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt - Trẻ khuyết tật học các trường chuyên biệt cấp tỉnh và huyện : 6.000 - Học sinh khuyết tật học trong các lớp tại cơ sở sản xuất : 13.000 - Học sinh mồ côi cha mẹ trong các làng SOS : 1.200 - Học sinh khuyết tật tại các trung tâm bảo trợ xã hội : 11.000 - Học sinh được nuôi tại các cơ sở từ thiện : 5.000 Đơn vị: Người 1.4 Theo trình độ chuyên môn kỹ thuật Trình độ chuyên môn kỹ thuật là chỉ tiêu thể hiện chất lượng nguồn lao động và tiềm năng to lớn của nguồn lao động. Do đó để nâng cao chất lượng nguồn lao động thì phải nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Theo số liệu thống kê, cả nước hiện nay có 322 trường đại học và cao đẳng, trong đó khoảng 1/10 là dân lập. Như thế là số trường quá nhiều so với tỷ lệ dân số và mức thu nhập quốc dân. Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của hệ thống cơ sở giáo dục đào tạo thì quy mô tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và các trường trung học chuyên nghiệp cũng không ngừng tăng lên. Trong tổng số sinh viên tuyển mới vào các trường đại học và cao đẳng thì số sinh viên vào các trường đại học là chủ yếu, trong đó phần lớn là vào các trường công lập. Cho thấy nhu cầu đào tạo đại học là rất lớn, lớn hơn rất nhiều so với các loại hình khác. Đây vừa là điểm tốt vừa là điểm không tốt. Tốt vì nó cho thấy được nhu cầu đào tạo đại học, cao đẳng của nhân dân ngày càng tăng, làm cho số dân có trình độ cao ngày càng tăng. Tuy nhiên đây cũng lại là thách thức lớn đối với công tác giáo dục, đào tạo của đất nước. Do nền kinh tế còn yếu kém nên đầu tư cho giáo dục đào tạo còn nhiều hạn chế, do đó không thể đáp ứng tốt được nhu cầu của người dân và chất lượng đào tạo cũng không được cao, gây lãng phí rất lớn nguồn nhân lực. 2. Phân bổ nguồn lao động Nguồn lao động nước ta phân bố không đồng đều giữa các lĩnh vực sản xuất, giữa các vùng trong cả nước và các ngành kinh tế quốc dân. Thực tế này ngày càng được điều chỉnh cho phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội nước ta. 2.1. Theo ngành Sau 30 năm công nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 56% lao động cả nước trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phân bố trên sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lực lượng lao động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp và tăng dần trong các ngành công nghiệp dịch vụ. Theo Bộ Lao động, cả nước có hơn 44 triệu người trong độ tuổi lao động. Trong số có việc làm thì trên 70% là không ổn định, dễ bị tổn thương, dễ rơi vào nghèo đói. Bảng 2 Cơ cấu sử dụng lao động của một số ngành công nghiệp cao và dịch vụ (%)năm 2008 Lĩnh vực Trình độ Lao động phổthông Công nhân kĩ thuật sơ cấp Trung cấp Cao đẳng, đại học trở lên CNTT 0 28.22 20.4 51.38 Chuyển giao KH-CN 16.2 22.5 15.5 45.8 Viễn thông 10 47.8 22.7 20.3 Kinh doanh tài chính-ngân hàng 8.5 28.1 21.4 42 Hoat động của tố chức quốc tế 6.2 6.3 25 62.5 2.2. Theo khu vực. Cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới, lực lượng lao động nước ta hiện nay chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và rất ít ở khu vực thành thị và ngày càng có xu hướng tăng dần ở khu vực thành thị, giảm dần ở khu vực nông thôn. Dự báo trong những năm tới, tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị còn tiếp tục tăng nhanh hơn cùng với sự phát triển của quá trình đô thị hoá. Sự phân bố lực lượng đã qua đào tạo từ sơ cấp, học nghề trở lên cũng như từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị, đặc biệt là các khu đô thị trọng điểm. Lực lượng lao động ở nông thôn chiếm 77,44% nhưng lao động đã qua đào tạo từ sơ cấp/học nghề trở lên chỉ chiếm 46,26% trong tổng số lao động đã qua đào tạo của cả nước; với lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên tỷ lệ này chỉ có 40,96%. Trong tương lai, với sự tác động của nhiều hoạt động của nhà nước cùng với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đã qua đào tạo ở khu vực nông thôn sẽ ngày càng tăng cả về quy mô và tỷ trọng so với khu vực thành thị. 3. Chất lượng nguồn lao động Những năm vừa qua, thị trường lao động ở nước ta đã hình thành và đang phát triển, lực lượng lao động khá dồi dào, thể hiện trên các mặt. Về cung cấp lao động cho sự phát triển thị trường trong nước và quốc tế, đến năm 2005, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chiếm 53,4% dân số (trên 44 triệu người); chất lượng cung lao động ngày càng cao, lao động qua đào tạo chiếm 25%, trong đó 19% qua đào tạo nghề. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới, năm 2005, chất lượng nguồn lao động của Việt Nam xếp thứ 53 trong số 59 quốc gia được khảo sát. Cơ cấu nguồn lao động tỉ lệ đại học (cử nhân, bác sĩ, kỹ sư)/ trung học chuyên nghiệp/công nhân kỹ thuật trung bình ở nước ta (1:1,16: 0,92 ); còn trung bình của thế giới (1:4:10), như vậy nước ta nghiêng tỉ lệ thầy nhiều hơn thợ quá lớn. Do đó có thể thấy số lượng sinh viên đại học được đào tạo ở nước ta hiện nay không phải là quá lớn và từ đó tạo nên thất nghiệp đại học, cũng không phải chúng ta cần ngăn chặn sự phát triển về số lượng, mà vấn đề quan trọng là ở chỗ chúng ta phải đảm bảo và tăng cường chất lượng đào tạo đại học. Nguồn lao động nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm 6 nước ASEAN và Trung Quốc. Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10. Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100 Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá nguồn nhân lực, chất lượng con người Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN 6 và Trung Quốc, có nhiều ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng. III. Nội dung về đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung của đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Nó cũng là việc chi dùng vốn hiện tại, tiến hành các hoạt động làm tăng quy mô và chất lượng nguồn nhân lực, vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung cơ bản sau: đầu tư cho hoạt động đào tạo lực lượng lao động, đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe y tế, đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động. 1. Vai trò của đầu tư phát triển nguồn nhân lực 1.1. Đối với Nhà nước và xã hội: Nguồn nhân lực là nguồn lực con người - là một trong những nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Vai trò của nguồn nhân lực thể hiện trong các mặt sau: 1.1.1. Nguồn nhân lực là động lực phát triển kinh tế - xã hội: Cùng với khoa học – công nghệ, vốn đầu tư, nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế – xã hội ở nước ta. Chỉ có nguồn lực con người mới tạo ra động lực cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy được tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Không thể không khẳng định vai trò của con người trong việc sáng tạo ra công cụ lao động, rồi vận hành và cải tiến chúng trong quá trình lao động, từ đó thúc đẩy quá trình sản xuất. Nguồn lực của con người chính là tổng hợp năng lực được huy động vào trong quá trình sản xuất. Năng lực đó chính là động lực quan trọng cho sự phát triển. Với mỗi quốc gia, nguồn nhân lực là nguồn lực dồi dào cần cho sự phát triển. Đặc biệt, đối với nước ta có nền kinh tế đang phát triển, với dân số đông, và dân số trẻ là tiềm năng cho nguồn nhân lực dồi dào. Nếu biết khai thác hợp lý nó sẽ tạo nên một động lực to lớn cho sự phát triển. 1.1.2. Nguồn nhân lực là mục tiêu của sự phát triển kinh tế-xã hội: Phát triển kinh tế-xã hội là nhằm phục vụ nhu cầu của con người, cải thiện đời sống con người, làm xã hội ngày càng hiện đại, văn minh. Con người là lực lượng tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần của xã hội, nó thể hiện rõ nét nhất mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Có thể khẳng định rằng nhu cầu tiêu dùng của con người cũng là nhân tố quyết định tác động tới quá trình sản xuất, định hướng cho sản xuất thông qua quá trình vận động cung-cầu trên thị trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphat_trien_nguon_nhan_luc_chuan_bi_cho_hoi_nhap_1204.doc