Đôi nét về bối cảnh lịch sử - Nguyễn Ánh lên ngôi, xác lập triều đại nhà Nguyễn
II. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính ở Trung ương
III. Phương thức (cách thức) điều hành triều chính của nhà Nguyễn
267 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 834 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chính trị học - Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o các trấn đề cử giao cho các quan ở quốc tử giám mở kỳ phúc hạch, nếu kinh thông văn tứ trường, cấp cho lương ăn để học tập.(GT 284)Những huấn đạo, giáo thụ giảng dạy xuất thân tú tài; những tôn sinh, cống sinh, ấm sinh đỗ tú tài, giao cho giáo quan quốc tử giám sát hạch, nếu xếp hạng ưu , bình cho vào dự thi.Thi ĐìnhNhững thí sinh đỗ kỳ thi Hội sẽ được vào thi Đình.Yết bảng thi Hội: lập bảng Giáp và bảng ẤtBảng Giáp: ghi danh những người đỗ chính thức;Bảng Ất: ghi danh những người đỗ lấy phó bảng.Những người có tên trong bảng Giáp sẽ được dự kỳ thi Đình.Thi ĐìnhThi Đình còn gọi là điện thí vì thi tại điện ở trong cung, kỳ thi đầu tiên triều nguyễn được mở vào thời Minh Mạng.Thi đình tổ chức ở điện Cần chánh hoặc điện khâm văn, thể thức tương tự như nhau.Thi ĐìnhKỳ thi đình được vua bann (chế sách) nên trưng bày hương án rất uy nghi.Nghi thức vào thi đình được tiến hành tôn nghiêm và long trọng do các quan bộ lễ cử hành có sự kiểm tra của tuần sát và các quan giám thị, quan độc quyển.Thi ĐìnhNhững người đỗ kỳ thi đình được goi là tiến sĩ, vua ban mũ áo cho dự tiệc yến tại triều đình, được dạo ngắm vườn thượng uyển và được vinh quy bái tổ sau khi đã dâng biểu tạ ân vua.Thi chế khoaKỳ thi chế khoa là khoa đặc biệt do vua tổ chức để kén chọ nhân tài, kỳ thi này tổ chức bất thường, gọi là kỳ thi bác học Hoành tài, cũng gọi là khoa cát sĩ. Nhã sĩ.Thi chế khoaThí sinh trong khoa thi này có thể là cử nhân; giám sinh ở quốc tử giám đã qua được khảo hạch,; giáo thụ, huấn đạo ở các hạt; những tiến sĩ hay phó bảng còn ở quê chưa bổ làm quan, cho đến những tú tài hoặc kẻ sĩ học rông được đề cử.Quan võCác kỳ thi võ cũng có thi Hương, thi Hội, thi Đình, nhưng chủ yếu là các môn võ nghệ.Chế độ quan chức- Chế độ công vụ, công chức LỊCH SỬ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAMChế độ tuyển dụng bổ nhiệm quan lạiNhững người thi đình đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp sẽ được nhập ngạch hàn lâm viện hàm trước tác, thuộc chánh lục phẩm.Nếu đỗ tiến sĩ đệ nhị hoặc đệ tam giáp sẽ được nhập ngạch hàn lâm hàm tư tưởng soạn, thuộc tòng lục phẩm hoặc hàm lâm viện hàm biên tu thuộc chánh thất phẩm.Chế độ tuyển dụng bổ nhiệm quan lạiNgười đỗ phó bảng được nhập ngạch hàn lâm viện hàm kierm thảo thuộc tòng thất phẩm.Từ phẩm hàm đó sẽ được bổ dụng vào các chức vụ tương ứng như tri phủ, đồng tri phủ, thư tri phủChế độ tuyển dụng bổ nhiệm quan lạiNhững ấm sinh dự thi nếu đỗ cử nhân, phó bảng, tiến sĩ đều được ưu tiên bổ nhiệm. Nếu đỗ tú tài thì phải tiếp tục học tập ở quốc tử giám để thi kỳ sau.Chế độ tuyển dụng bổ nhiệm quan lạiĐối với các kỳ thi võ: bao người đỗ cao đầu bảng đều được bổ làm quan võ có phẩm trật cao.Chế độ đối với quan lạiDưới thời nhà nguyễn quan lại trong bộ máy hành chính ở triều đình và các tỉnh thành phủ huyện đều được hưởng lương và bổng. Bổng lộc là các khoản ưu đãi do có công lao hoặc thành tích đặc biệt. Chế độ đối với quan lạiLàm quan lớn ở triều đình thì vợ con ở quê được cấp ruộng cho phát cánh thu tô hoạc được hưởng các khoản khác do vua ban thưởng, lương bổng chủ yếu là lương thực hoặc tiền.Chế độ đối với quan lạiMặc dù luật triều nguyễn khắt khe, các chính sách ưu đãi như chu cấp tiền “dưỡng liêm”nhưng quan lại dưới triều nguyễn vẫn nhũng nhiễu, tham ô, hối lộ, bòn rút đục khoét nhẫn tâm.Chế độ đối với quan lạiBốn không: không lập tể tướng, không tôn phò mã, không phong trạng nguyên, không phong ngôi hoàng hậu, chế độ bốn không này là nát nỗi bật về chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế trong chế độ quan chức nhà nguyễn. Chế độ đối với quan lạiChế độ này thường xuyên được cũng cố bằng hàm tước phẩm, phẩm trật, thi cử, học vấn cứng nhắc trong một nền kinh tế - văn hóa lạc hậu, khép kín. Từ tính chất chuyên chế các vua triều nguyễn khó nghe lời thỉnh cầu đầy tâm huyết của nhiều trí thức, sĩ phu, triều thần, nhất là vào thời điểm thực dân pháp xâm lược nước ta.Thành Bắc-Ninh (1884)Bắc-Ninh ngày hôm sau, sau khi thất thủ (13-03-1884) Cửa thành Bắc-Ninh mà quân đội Pháp đã tràn vào Kho gạo và chòi canh của thành Bắc-Ninh Thành Bắc-Ninh Thành Bắc-Ninh bị pháo binh Pháp oanh tạc Ðiện thờ chánh (?) của thành Bắc-Ninh Voi của Tổng Ðốc Bắc-Ninh Súng ống của Giặc Cờ Ðen mà Pháp tịch thu được Vũ khí của Giặc Cờ Ðen (GCÐ) bị Pháp tịch thu Ðồn nhỏ do Giặc Cờ Ðen (GCÐ) dựng lên ở Bắc-Ninh Ðồn nhỏ do GCÐ dựng lên ở gần Bắc-Ninh Chiến hào do GCÐ dựng lên ở gần Bắc-Ninh NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA TRIỀU NGUYỄN VỀ BẢO MẬT THÔNG TIN TRONG VĂN BẢN Bảo vệ bí mật quốc gia là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng của mọi nhà nước. Trong hoạt động tổ chức, điều hành của nhà nước, nhiều thông tin bí mật được thể hiện qua nội dung của các văn bản. Chính vì vậy, Nhà nước ta đã có nhiều văn bản quy định về vấn đề bảo mật nói chung , bảo mật các thông tin trong văn bản nói riêng. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA TRIỀU NGUYỄN VỀ BẢO MẬT THÔNG TIN TRONG VĂN BẢN Hiện nay, các phương tiện kỹ thuật hiện đại mặc dù đang hỗ trợ rất nhiều việc đẩy mạnh cải cách hành chính, nhưng cũng đặt ra cho các cơ quan, tổ chức những thách thức mới trong vấn đề bảo mật thông tin trong văn bản. 1. Những thông tin trong văn bản cần bảo mậtĐể phục vụ hoạt động quản lý nhà nước, Triều Nguyễn đã đặt ra và sử dụng rất nhiều loại văn bản như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc, Tấu...Nội dung của các văn bản đó phản ánh hầu hết các vấn đề của đời sống xã hội, phản ánh hoạt động quản lý, điều hành đất nước của nhà vua và các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Qua các tư liệu còn để lại, chúng tôi thấy nhà Nguyễn quan tâm bảo mật những vấn đề chủ yếu sau: Trước hết là tất cả các văn bản truyền đạt những mệnh lệnh của nhà vua. Là một nhà nước quân chủ nên nhà vua Triều Nguyễn có quyền lực rất lớn như: Quyền ban hành pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia; quyền bổ nhiệm và bãi miễn quan lại từ trung ương đến cấp huyện; quyền xét xử những vụ án trọng tội ... Tất cả các thần dân đều phải tuân thủ mệnh lệnh và các quyết định của nhà vua. Vì thế các mệnh lệnh của nhà vua phải được bảo mật tuyệt đối. Theo quy định của Triều Nguyễn, những người có trách nhiệm chuyển giao văn bản trong đó có mệnh lệnh của nhà vua phải có trách nhiệm bảo vệ, không được tiết lộ ra ngoài, cũng như không được làm rơi, làm hỏng hay đánh mất văn bản. Hoàng Việt luật lệ - một bộ luật lớn nhất của Triều Nguyễn đã quy định rõ: “Chế thư và sách của nhà vua, của các nha môn là những mệnh lệnh quan trọng ban xuống cho toàn dân, quan hệ rất lớn tới việc công, nếu để hư, thêm bớt hay có kẻ ăn trộm đều bị trị tội theo pháp luật”Thứ hai, là những văn bản có nội dung liên quan đến việc quân cơ (bí mật quân sự). Nhà Nguyễn cũng như tất cả các triều đại khác, luôn luôn phải lo bảo vệ đất nước, đối phó với nạn ngoại xâm, nên vấn đề quân sự luôn được coi là một trong những vấn đề cốt tử Bởi vậy, nếu việc quân cơ nói chung và những thông tin về quân sự trong các văn bản nói riêng bị tiết lộ ra bên ngoài mà kẻ địch biết được, đó là điều hết sức nguy hiểm. Chính vì vậy nhà Nguyễn đã có những quy định rất rõ ràng và nghiêm ngặt việc bảo vệ bí mật quân sự. Trong Hoàng Việt luật lệ, triều Nguyễn đã khẳng định: “Phàm triều đình cùng thảo luận kế hoạch với Tổng binh và các tướng quân về việc tấn công giặc ngoại phiên và bắt sống đồ đảng phản nghịch, đó là đại sự tối mật” Thứ ba, những văn bản của các cơ quan trung ương và địa phương có nội dung đề cập đến những vấn đề quan trọng về việc quân, việc nước đều được xếp vào loại cần được bảo mật. Hoàng Việt luật lệ nhấn mạnh rằng “... những văn thư đó nghiêm trọng hơn văn thư thường một bậc”. Bởi vì trong văn bản có những tin tức, số liệu phản ánh nội tình của từng địa phương cũng như của cả nước cần tâu trình và xin ý kiến của nhà vua. Cũng như ngày nay, những vấn đề đó chỉ có những người có trách nhiệm được biết, nếu không bảo mật sẽ gây hậu quả khó lường. 2. Những biện pháp của Triều Nguyễn nhằm bảo vệ bí mật thông tin trong văn bảnThứ nhất, để bảo vệ bí mật nhà nước, nhà Nguyễn đã đặt ra các cơ quan có nhiệm vụ soạn thảo, quản lý những văn bản, giấy tờ quan trọng. Việc soạn thảo và ban hành các văn bản dưới triều Nguyễn rất được coi trọng, bởi thông tin trong văn bản có đảm bảo được an toàn bí mật hay không cũng phụ thuộc vào những viên quan trực tiếp được giao việc soạn thảo. Do đó, để đảm bảo chất lượng và bí mật thông tin trong các văn bản quan trọng, nhà Nguyễn đã giao việc soạn thảo những văn bản này cho những cơ quan có vị trí đặc biệt ở Trung ương, cụ thể là: Nội các là cơ quan được giao nhiệm vụ: soạn thảo, chuyển giao, lưu trữ các chỉ, dụ của nhà vua và coi giữ các văn bản (bản chính) có ý kiến phê duyệt của nhà vua (còn gọi là châu bản); tiếp nhận các tấu, sớ trong triều hoặc ngoài các nha môn đưa lên; ghi các ý kiến của vua đã quyết vào các sớ, tấu ấy và gửi cho các quan trong triều có liên quan thi hành. Về việc này, nhà vua có quy định rõ ràng: “Từ nay nếu tiếp nhận sớ, chương đưa đến, trừ ra loại có mật phong và việc có quan hệ đến quân cơ thì nên đem nguyên bản tiến trình không được mở ra”. Trong Nội các còn có riêng một bộ phận chuyên giữ văn thư, sổ sách của vua, bản đồ của nhà nước, công văn ngoại giao với nhà Thanh và các nước lệ thuộc. Bộ phận này được gọi là Đồ thư tào. Về việc này, nhà vua có quy định rõ ràng: “Từ nay nếu tiếp nhận sớ, chương đưa đến, trừ ra loại có mật phong và việc có quan hệ đến quân cơ thì nên đem nguyên bản tiến trình không được mở ra”. Trong Nội các còn có riêng một bộ phận chuyên giữ văn thư, sổ sách của vua, bản đồ của nhà nước, công văn ngoại giao với nhà Thanh và các nước lệ thuộc. Bộ phận này được gọi là Đồ thư tào. Ngoài Nội các, nhà Nguyễn còn đặt Hàn Lâm viện là cơ quan chuyên trách soạn thảo những văn bản quan trọng và cơ mật của nhà vua như: + Các loại chiếu, sách, chế, cáo của nhà vua . + Các văn bản ngoại giao của triều đình gửi cho các nước. Từ năm 1812, nhà Nguyễn bắt đầu giao cho Đông Các nhiệm vụ soạn thảo các văn bản quan trọng, có liên quan đến các vấn đề bí mật quốc gia, đặc biệt là bí mật quân sự. Minh Mạng có chỉ dụ:“Từ nay trở đi nếu có chỉ dụ, việc gì có quân cơ quan trọng thì chuẩn cho... đến toàn Đông Các để làm và viết ra thi hành. Người nào không phải là người làm việc trong Các thì không được lại gần nghe ngóng, để giữ cẩn thận bí mật, chuẩn làm định lệ”. Ngoài các cơ quan nói trên, trong cơ cấu tổ chức của các Bộ, nhà Nguyễn còn đặt một số bộ phận, gọi là xứ để tiếp nhận, phân phối, sao chép văn bản có ý kiến phê chuẩn của nhà vua như : Xứ Lại trực (Bộ Lại), Xứ Binh trực (Bộ Binh), Xứ Lễ trực (Bộ Lễ)... Thứ hai, để bảo vệ bí mật quốc gia nhà Nguyễn còn thiết lập các cơ quan chuyên lo việc chuyển đệ công văn, giấy tờ, đồng thời đặt ra những quy định chặt chẽ về vấn đề này. Ngay từ năm 1820, vua Minh Mạng đã cho thiết lập Ty Bưu chính trực thuộc Bộ Binh để phụ trách việc vận chuyển công văn trong toàn quốc. Năm 1834 lại đặt thêm Ty Thông chính sứ làm nhiệm vụ tiếp nhận và phân phối công văn của các địa phương gửi về trung ương và kiểm xét văn bản giấy tờ của các cơ quan thuộc triều đình gửi đi các địa phương. Theo quy định của triều Nguyễn, việc chuyển công văn phải tuân thủ theo một quy chế khá chặt chẽ. Công văn giấy tờ gửi đi đều phải bỏ vào phong bì dán kín, sau đó buộc lại rồi cho vào một ống bằng tre gọi là ống trạm, dán phong kín miệng ống rồi dùng vải trắng thắt buộc lại; lấy cánh kiến đốt cháy, dán kín và đóng dấu vào chỗ cánh kiến để làm tin. Khi vận chuyển các ống trạm phải được bỏ vào trong túi vải. Đối với công văn mật thì phải đựng hai ống trạm, một ống ở bên trong và một ống ở bên ngoài. Đối với văn thư ngoại giao với ngước ngoài (Quốc thư), Triều Nguyễn quy định phải được soạn thảo bằng giấy tinh khiết, trong đó có đề quốc hiệu và niên hiệu của nước ấy. Ở trang thứ hai của tờ đầu và ở trang trên tờ cuối phải đóng một dấu ấn ở chỗ đề chữ niên hiệu và mặt trước, mặt sau đều có bìa bọc bằng gấm vàng. Thư đựng trong hai lần phong bì. Phong bì ở bên trong, mặt ngoài bọc bằng lĩnh vàng, mặt trong bọc bằng lụa vàng, mỗi chỗ giáp niên ở phía trên, phía dưới trong phong bì đều đóng một dấu Quốc ấn. Phong bì ngoài, mặt ngoài bọc gấm vàng, mặt trong lót bằng lĩnh vàng rồi đem hai cái dải niêm ngang lại”. Sau đó Quốc thư được đặt vào trong hai lần hộp. Hộp trong được bọc bằng gấm vàng, hộp ngoài được đựng vào cái túi vải vàng, ngoài cùng lại đựng bằng một cái hộp sơn son. Thứ ba, Nhà Nguyễn đã đề ra những biện pháp xử phạt rất nặng đối với những hành vi làm tiết lộ bí mật,đánh mất văn thư, lấy trộm hoặc mở trộm văn thư ... Đối với những hành vi làm tiết lộ bí mật quốc gia, Hoàng Việt luật lệ đã có quy định: Nếu tướng ở biên cương báo về triều đình tình hình quân sự trọng đại, ai biết mà tiết lộ, thì bị phạt 100 trượng và lưu đày trong 3 năm; Nếu lén mở văn thư ty quan, ấn phong, sẽ bị phạt 60 trượng; Trong trường hợp triều đình có bàn kế hoạch đánh giặc hoặc dẹp loạn, nếu ai nghe được mà tiết lộ thì phải tội chém đầu; Nếu đem những việc thuộc về quân cơ trọng yếu mà bàn tán với người khác hoặc các quan hầu cận tiết lộ việc cơ mật có thể bị phạt từ bãi chức đến chém đầu tuỳ theo nặng nhẹ.Vào năm 1847, vua Thiệu Trị đã từng xử phạt tên Vũ Văn Điêm là cai đội ở thuyền, khi đi tuần ngoài biển đánh mất một bản ghi kỷ luật của việc tuần dương để bọn cướp biển nhặt được. Việc được tâu lên vua, vua dụ rằng :“Mới rồi tên can phạm ấy làm mất một bản ghi kỷ luật của việc tuần dương, để bọn dương di nhặt được ... nay cứ theo tờ tâu thì tên Vũ Văn Điêm bị bọn dương di kiêm xét, cúi đầu sợ hãi, tự đưa bản kỷ luật ấy ra làm tiết lộ việc quân cơ, vậy chuẩn cho đem tên Vũ Văn Điêm ra ngoài bờ biển chém ngay, lấy đầu bêu ra cho mọi người đều biết”. Đối với trường hợp đánh mất văn thư, thánh chỉ của nhà vua, thêm bớt tình tiết trong văn thư, sửa chữa văn thư mà những văn thư ấy có nội dung là những việc quân cơ, những việc cung cấp quân nhu, lương tiền cho quân lính ở biên giới đều bị xử phạt 90 trượng, lưu đày 2 năm rưỡi. Nếu việc gây hậu quả nghiêm trọng như vì thế mà bị thua trận hoặc “Làm bại quân nhục nước” thì xử tội chém ngay. Đối với những trường hợp ăn cắp chế thư, sách của nhà vua và sách của các quan ở nha môn, Hoàng Việt luật lệ có quy định: “lấy cắp sách của vua thì bị chặt cổ không phân biệt kẻ chủ mưu hay người tòng phạm; ăn trộm văn sách của quan ở các nha môn thì bị xử phạt 100 trượng, thích chữ vào mặt. Nếu có sự gian trá thay đổi hoặc xấc láo tiền lương hay liên quan đến quân cơ và lương tiền thì bị treo cổ giam chờ”. Đối với việc vận chuyển công văn, nếu làm mất hoặc làm hỏng mà việc có liên quan tới những vấn đề quan trọng thì tuỳ theo hậu quả của hành vi đó gây ra mà xử tội, có thể phạt từ 40 đến 100 trượng. Tóm lại, qua những quy định và các biện pháp cụ thể trên đây, chúng ta thấy trong các thời kỳ lịch sử, triều Nguyễn cũng như các triều đại khác đã quan tâm tới vấn đề bảo vệ bí mật những thông tin trong văn bản. Ngày nay nhà nước ta vẫn tiếp tục quan tâm đến vấn đề này, nhưng phạm vi rộng hơn và những quy định cũng chi tiết hơn. Công tác văn thư, lưu trữ là lĩnh vực hoạt động có liên quan rất nhiều đến việc bảo mật thông tin trong văn bản. Vì thế, những quy định của các triều đại trước đây về vấn đề này cần được nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc và phê phán để góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ văn thư, lưu trữ trong các cơ quan, đồng thời vận dụng vào công cuộc cải cách hành chính hiện nay. CHƯỞNG TẢ QUÂN QUẬN CÔNG LÊ VĂN DUYỆT (1764 – 1832) Xem thêm CĐ 37. LÊ VĂN DUYỆT Câu 21: Anh (chị) hãy trình bày những nét khái quát về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở Trung ương của triều đình nhà Nguyễn giai đoạn từ 1802 đến 1858?[GT, 220-241]Xem mô hình Mô hình Vua Minh MạngCâu 22: Anh (chị) hãy trình bày những nét chủ yếu về phương thức điều hành triều chính của Triều đình nhà Nguyễn?[GT, 241-247]Câu 23: Anh (chị) hãy trình bày những nét cơ bản về cơ cấu tổ chức hành chính nhà nước ở địa phương thời Nguyễn giai đoạn từ 1802 đến 1831?[GT, 250-259]Câu 24: Anh (chị) hãy trình bày nội dung chủ yếu về những thay đổi cơ cấu tổ chức hành chính địa phương của triều Nguyễn của cải cách hành chính dưới Triều Vua Minh Mạng từ 1831 đến 1884?[GT, 259-267]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_5_p2_892.ppt