Tự chủ đại học không chỉ là một xu hướng phát triển tất yếu, mà còn là nhu cầu
cấp thiết của nhiều các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, quá trình
xây dựng mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong giáo dục đại học phải tuân thủ một
số nguyên tắc khoa học và điều kiện thực tiễn nhất định. Tất cả các nguyên tắc này đều
đã được đề cập trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về tự
chủ đại học bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau, nhưng về cơ bản có thể được
tóm gọn lại trong 5 yếu tố cụ thể, gồm: 1) tự chủ mục tiêu, sứ mệnh, và nhiệm vụ, 2)
tự chủ học thuật, 3) tự chủ về cơ cấu tổ chức và nhân sự, 4) tự chủ tài chính, và 5) tự
chủ cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo. Mặc dù vẫn còn không ít vấn đề
cần phải được tiếp tục cập nhật và bổ sung, nhưng hệ thống các cơ chế, chính sách, và
quy định của phát luật Việt Nam về tự chủ đại học đã tạo hành lang pháp lý cho quá
trình ra đời, vận hành, và phát triển của mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong hệ
thống giáo dục đại học nước nhà thời gian qua. Tuy vậy, khả năng triển khai thực hiện
trong thực tế của mỗi trường đại học không chỉ một khác nhau, mà còn tương đối hạn
chế so với các quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam định xét về tổng thể. Ngoài
các trường đại học ngoài công lập và một số trường đại học công lập có tiềm lực, phần
lớn các trường đại học còn lại của Việt Nam hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động có tính chất bước ngoặt này. Bên cạnh cơ chế
kiểm soát toàn diện của các cơ quan chủ quản và chủ sở hữu, thì hệ thống giáo dục đại
học Việt Nam được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa
có các văn bản quy định rõ ràng đối với cơ chế tự chủ của từng mô hình cụ thể này.
Thực tế đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về mặt
quản lý nhà nước trên lĩnh vực tự chủ đại học, nhưng bản thân các cơ sở giáo dục đại
học cũng phải phấn đấu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cụ thể của cơ chế tự chủ theo
quy định, thì người học cũng phải nâng cao năng lực tự giác, trong khi sự tham gia của
bên thứ ba ngày càng trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết.
25 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chính sách tự chủ đại học của nhà nước và năng lực thực tế của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị động không còn đóng vai trò chủ đạo, mà thay vào đó là các mối quan
hệ theo chức năng và nhiệm vụ. Điều đó có nghĩa là trong các mối quan hệ này, vấn đề
không phải nằm ở chỗ ai quyết định và ai lệ thuộc, mà tất cả đều có các chức năng và
nhiệm vụ của riêng mình và nếu tất cả các đều hoàn thành tốt tất cả các chức năng và
nhiệm vụ đã được giao trong khuôn khổ của pháp luật, thì cũng có thể xem như đã
phần nào thực hiện được cơ chế tự chủ bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng các trường có tiềm lực và có khả năng tự vận động,
thường yêu cầu được tự chủ nhiều hơn. Ngược lại, các cơ sở giáo dục đại học còn
nhiều khó khăn và khó có thể tự đứng trên đôi chân của chính mình thường vẫn muốn
dựa dẫm vào các cơ quan chủ quản và chủ sở hữu nhiều hơn. Chính mối quan hệ
chồng chéo và phức tạp này làm cho bức tranh tự chủ và mô hình quản trị theo cơ chế
tự chủ của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam nhiều lúc thiếu tính thống nhất và đồng
bộ nghiêm trọng. Chính vì vậy, bên cạnh các cơ chế và chính sách đã có, chính các cơ
quan chủ quản và chủ sở hữu và các trường đại học cần đưa ra một hệ thống các bộ
tiêu chí rõ ràng và tiêu chuẩn cụ thể để luật hóa các mức độ tự chủ của các trường đại
học. Điều đó có nghĩa là các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam cần phải hội tụ đầy đủ
một số yếu tố nhất định nào đó để được thực hiện cơ chế tự chủ, nhưng một khi đã đạt
được các tiêu chuẩn theo quy định, thì họ cũng tự động được triển khai mô hình quản
trị theo cơ chế tự chủ của mình.
Thứ ba là đối với các cơ sở giáo dục đại học: các cơ sở giáo dục đại học là đầu
tàu và trung tâm sáng tạo tri thức lớn nhất cả nước. Cho dù được sở hữu bởi bất cứ ai
và vận hành theo bất cứ mô hình nào, nhưng một trong những chức năng cơ bản và
quan trọng nhất của các trường đại học là phải sáng tạo ra các tri thức mới cho cộng
đồng, dân tộc, và nhân loại. Dựa trên cơ sở các tri thức mới đó, các trường đại học mới
có thể cung cấp các dịch vụ khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, và các gói hàng
hóa có liên quan cho thị trường. Theo mô hình phát triển này, việc đào tạo và cung cấp
cho thị trường lao động một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao và đáp ứng đến
mức tối đa các nhu cầu học tập ngày càng đa dạng và phong phú của cộng chỉ là một
bộ phận rất nhỏ trong hệ thống các chức năng và nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục đại
học hiện đại. Tuy nhiên, trước khi nói đến các chức năng cơ bản và nhiệm vụ mấu chốt
332
đó, muốn thực hiện mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ một cách lâu dài và bền vững,
bản thân các trường đại học phải tự đứng trên đôi chân của chính mình. Điều đó có
nghĩa là các cơ sở giáo dục đại học phải tự sống được bằng hệ thống các hàng hóa và
dịch vụ mà mình có thể cung cấp cho thị trường và các bên có nhu cầu. Để có thể cung
cấp cho thị trường một hệ thống các dịch vụ giáo dục và đào tạo cũng như khoa học và
công nghệ càng phong phú và chất lượng chừng nào tốt chừng đó, bản thân các cơ sở
giáo dục đại học phải chứng minh được năng lực thực tế và chất lượng hoạt động của
mình. Để khẳng định được vị trí của mình trên bản đồ giáo dục đại học trong và ngoài
nước, bản thân các trường đại học phải có tiềm lực và chiến lược phát triển đúng
hướng. Tuy nhiên, ngoài các trường đại học ngoài công lập và một số ít các trường đại
học đã bước đầu thực hiện có hiệu quả mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ, thì đa phần
các trường đại học công lập của Việt Nam hiện nay gần như không thể tồn tại được,
nếu thiếu vắng bầu sữa ngân sách nhà nước. Chính vì thế, ngoài năng lực tự thân vận
động của chính bản thân các cơ sở giáo dục đại học, thì bản thân họ cũng cần phải có
một lộ trình rõ ràng và cụ thể để biến các khoản viện trợ không hoàn lại của nhà nước
trở thành một nguồn thu càng nhỏ và không đáng kể trong tổng thu ngân sách của
mình chừng nào tốt chừng đó. Chỉ có thể độc lập và tự chủ trên lĩnh vực tài chính, mới
có thể triển khai một mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ hiệu quả, nhưng năng lực
sáng tạo và khả năng giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn cuộc sống mới thực
sự là thước đo giá trị tự chủ của các trường đại học trong thời gian tới.
Thứ tư là người học và xã hội: một trong những bộ phận quan trọng và không
thể thiếu trong quá trình tồn tại và phát triển của các trường đại học là người học.
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, người học không chỉ là nguồn cung cấp tài
chính chủ yếu cho quá trình vận hành và hoạt động của hệ thống các cơ sở giáo dục
đại học ngoài công lập và các trường bước đầu thực hiện thành công mô hình quản trị
theo cơ chế tự chủ, mà còn là sản phẩm đầu ra quan trọng nhất của hệ thống giáo dục
đại học Việt Nam. Thành công của người học là một trong những tiêu chí quan trọng
để khẳng định chất lượng đào tạo của hệ thống các cơ sở giáo dục đại học. Mô hình
quản trị theo cơ chế tự chủ cho phép người học có thể thỏa mãn đến mức tối đa các
nhu cầu học tập đa dạng và yêu cầu nghiên cứu phong phú của bản thân mình. Tuy
nhiên, mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong các trường đại học cũng buộc người
học phải có tinh thần chủ động và tự chịu trách nhiệm cao hơn đối với chính tương lai
của bản thân mình và tất cả các bên liên quan. Với cơ chế tự chủ, người học có quyền
lựa chọn tất cả các gói dịch vụ giáo dục và đào tạo phù hợp nhất với nhu cầu, mong
muốn, và điều kiện thực tế của bản thân mình, nhưng họ cũng tự chịu trách nhiệm đối
với quyết định của mình. Trong cơ chế tự chủ, không ai có quyền bắt người học phải
chọn ngành nào, học bằng cách nào, và lúc nào thì mới bắt đầu. Tuy nhiên, cần lưu ý
thêm rằng một khi người học đã lựa chọn các gói dịch vụ giáo dục, tham gia vào các
mối quan hệ giáo dục, và thực hiện các hợp đồng giáo dục đã được ký kết với cơ sở
giáo dục đại học bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau, họ buộc phải thực hiện
các điều khoản đã được ký kết trong hợp đồng đó. Ví dụ, không một ai có quyền bắt
người học phải tham gia học chương trình cao học công nghệ thông tin trong một
trường đại học nào đó. Vì không ai có quyền buộc họ phải học, nên họ có quyền lựa
chọn phương thức học và lúc bắt đầu khóa học. Tuy nhiên, một khi họ đã lựa chọn
khóa học nói trên, thì người học buộc phải thực hiện các điều khoản đã ký kết trong
toàn bộ khóa học theo quy định của cơ sở giáo dục đại học. Ở đây, cần lưu ý thêm là
trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay có rất nhiều điều khoản không được ký kết bằng
các hợp đồng giấy trắng mực đen rõ ràng, mà thường được quy định trong quy chế
333
hoạt động của nhà trường và các tiêu chí hoàn thành khóa học. Điều đó có nghĩa là
mặc dù có nhiều quyền chủ động và nhiều lựa chọn hơn, nhưng bản thân người học
cũng buộc phải có trách nhiệm với quyết định của mình nhiều hơn. Thực tiễn cho thấy
trước khi đưa ra quyết định các nền giáo dục đại học tiên tiến với một truyền thống tự
chủ lâu dài thường khuyên người học nên nghiên cứu và tìm hiểu kỹ càng trước khi
đưa ra quyết đinh, nhưng các chương trình đào tạo và cơ sở giáo dục đại học cũng
cung cấp thêm nhiều cơ hội có thể thay đổi lựa chọn bất cứ lúc nào và trong mọi điều
kiện có thể.
Thứ năm là thị trường lao động, xã hội, và bên thứ ba: cho đến hiện nay một
trong những tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động quan trọng nhất của các trường đại
học là năng lực giải quyết việc làm của thị trường lao động đối với người học sau khi
tốt nghiệp. Trong một chừng mực nhất định nào đó có thể nói rằng thị trường lao động
là một trong những thước đo quan trọng nhất đối với chất lượng hoạt động của hệ
thống các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cần lưu ý thêm mối
quan hệ giữa năng lực đào tạo thực tế của các trường đại học và khả năng giải quyết
việc làm của nền kinh tế. Xét về bản chất, chức năng và nhiệm vụ của các cơ sở giáo
dục đại học là cung cấp các gói dịch vụ giáo dục và đào tạo cũng như khoa học và
công nghệ cho các bên có nhu cầu, chứ không phải giải quyết việc làm cho người học.
Quyền lựa chọn ngành học, phương thức đào tạo, và quy mô gói dịch vụ thuộc về
người học, còn chức năng giải quyết việc làm cho người lao động là của thị trường lao
động và nền kinh tế. Tuy nhiên, đó là các lập luận mang tính chất lý thuyết của cơ chế
thị trường, còn trong thực tế một khi hiện tượng thị trường lao động thừa đội ngũ
nguồn nhân lực đã qua đào tạo hàng loạt, thì chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục
đại học cũng cần phải được xem xét lại. Mặc dù khả năng kiếm được việc làm trên thị
trường lao động là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt
động của các trường đại học, nhưng thành công của các cơ sở giáo dục đại học còn
được quyết định bởi nhiều yếu tố khác nữa, chứ không nhất thiết chỉ duy nhất yếu tố
người học. Trong bối cảnh đó, xã hội có thể tham khảo thêm các thông số nghiên cứu
khoa học, hợp tác quốc tế, và chuyển giao công nghệ. Tất cả các thông số này không
chỉ có ý nghĩa ngày càng quan trọng đối với chất lượng đào tạo, mà còn ảnh hưởng
trực tiếp đến vị thế xã hội và uy tín lâu dài của các cơ sở giáo dục đại học trong cộng
đồng. Bên thứ ba chính vì thế nên được khuyến khích tham gia một cách tích cực và
chủ động hơn vào trong các quá trình hoạt động của các trường đại học muốn thực
hiện mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ. Trong thực tế, bên thứ ba không chỉ là một
trong những nguồn cung cấp ngân quỹ quan trọng nhất cho quá trình hoạt động của
các trường đại học và quỹ học bổng cho người học, mà còn là lực lượng thường xuyên
tham gia và có một tiếng nói rất có trọng lượng trong toàn bộ quá trình thiết kế chương
trình, mở chuyên ngành đào tạo, và thậm chí cả kiểm tra và đánh giá của các cơ sở
giáo dục đại học của các nước công nghiệp phát triển. Mặc dù khả năng này chắc còn
xa mới cỏ thể được áp dụng đại trà ở Việt Nam, nhưng những mô hình tự chủ thành
công thời gian gần đây đều không thể thiếu các đóng góp tích cực của các yếu tố thị
trường lao động, đóng góp của xã hội, và sự tham gia tích cực và chủ động của bên thứ
ba vào trong quá trình hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Ví dụ, hội đồng
trường của rất nhiều trường đại học hiện nay đều có sự tham gia của đại diện chính
quyền, doanh nghiệp, và thậm chí của cả người học.
334
5. Kết luận
Tóm lại, tự chủ đại học không chỉ là một quy luật tất yếu khách quan, mà còn là
nhu cầu cấp thiết của nhiều nền giáo dục đại học trên thế giới. Hệ thống giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay là một trong số đó. Tuy nhiên, quá trình triển khai xây dựng
mô hình quản trị theo phương thức tự chủ trong giáo dục đại học phải tuân thủ theo
một số nguyên tắc khoa học và thực tiễn nhất định. Một trong số đó là tự vận hành và
tự hoạt động. Mặc dù vậy, cho dù có được tự do hoạt động đến đâu, cơ chế tự chủ của
các cơ sở giáo dục đại học cũng phải tuân thủ và vận hành trong khuôn khổ của pháp
luật. Điều đó có nghĩa là mặc dù cơ chế tự chủ có thể cho phép các cơ sở giáo dục đại
học phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế của mình trong quá trình hoạt động, nhưng
đồng thời cũng đặt ra các yêu cầu ngày càng cấp thiết về mức độ tuân chủ các quy
chuẩn pháp luật. Một trong những yếu tố như thế chính là tự chủ đại học phải nằm
trong quy hoạch mạng lưới giáo dục đại học của cả nước cũng như chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của từng vùng miền. Bên cạnh đó, ngoài nguyên tắc tự giải trình
và tự chịu trách nhiệm, chấp nhận sự giám sát của bên thứ ba mới là một bằng chứng
thực sự cho năng lực tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. Tất cả các nguyên tắc này
đã được đề cập trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về tự
chủ đại học bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau, nhưng tựu chung lại một khi
nói đến mô hình quản thị theo cơ chế tự chủ thì các trường đại học phải thực hiện được
ít nhất 5 tiêu chí cụ thể, gồm: 1) tự chủ mục tiêu, sứ mệnh, và nhiệm vụ, 2) tự chủ học
thuật, 3) tự chủ về cơ cấu tổ chức và nhân sự, 4) tự chủ tài chính, và 5) tự chủ cơ sở
vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo. Trong số này, tự do học thuật, tự chủ nguồn
thu, và cạnh tranh nhân giáo dục đại học lực đóng vai trò quyết định hàng đầu. Mô
hình quản trị theo cơ chế tự chủ này đã được cụ thể hóa trong hệ thống các cơ chế,
chính sách, và quy định của pháp luật Việt Nam từ lúc bắt đầu thành lập các trường đại
học quốc gia và đại học vùng đầu tiên trong những năm 1993-1995 và hoàn thiện dần
dần cho đến Luật Giáo dục năm 2019. Mặc dù vẫn còn không ít vấn đề cần phải được
tiếp tục nghiên cứu, sửa chữa, và bổ sung, nhưng hệ thống các cơ chế, chính sách, và
quy định của Việt Nam về tự chủ đại học đã tạo hành lang pháp lý cho quá trình ra đời,
vận hành, và phát triển của mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong hệ thống giáo
dục đại học Việt Nam trong gần 3 thập kỷ qua. Tuy vậy, năng thực tế, tiềm lực vốn có,
và khả năng triển khai thực hiện trong thực tế của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
không chỉ rất khác xa nhau, mà còn tương đối hạn chế so với luật định xét về tổng thể.
Ngoài các trường đại học ngoài công lập thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính, cơ sở
vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo, và cơ cấu tổ chức và nhân sự ngay từ đầu
cũng như một số trường đại học công lập có tiềm lực đã bước đầu thực hiện thành
công mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ, phần lớn các trường đại học công lập còn lại
của Việt Nam hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi mô hình
hoạt động có tính chất bước ngoặt này. Điều đó có nghĩa là mặc dù hành lang pháp lý
đã sẵn sàng, nhưng tự chủ đại học trong thực tế không phải là câu chuyện ngày một
ngày hai của cả một hệ thống. Bên cạnh truyền thống chưa muốn cởi trói của một số
cơ quan chủ quản và chủ sở hữu, thì năng lực thực tế của không ít cơ sở giáo dục đại
học của Việt Nam hiện nay chưa thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tự chủ đại học theo
quy định bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Trong khi hệ thống giáo dục đại
học Việt Nam được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, thì cho đến nay vẫn chưa
có các văn bản quy định rõ ràng đối với cơ chế tự chủ đối với từng mô hình cụ thể này.
Thực tế đó đòi hỏi ngoài việc hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
mặt quản lý nhà nước, thì các cơ quan chủ quản và chủ sở hữu cũng cần xác định một
335
mối quan hệ rõ ràng trong mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ đối với các chính các bộ
phận cấu thành của mình theo nguyên tắc chức năng và nhiệm vụ. Cùng lúc đó, bản
thân các cơ sở giáo dục đại học cũng phải phất đấu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cụ
thể của cơ chế tự chủ theo quy định và từng bước khẳng định năng lực thực tế của
mình trên bản đồ giáo dục đại học trong cũng như ngoài nước để triển khai mô hình
quản trị theo cơ chế tự chủ một cách lâu dài và bền vững. Tuy nhiên, năng lực tự giác,
tự chủ động, và tự chịu trách nhiệm của người học cũng là một yếu tố không thể thiếu,
trong khi sự tham gia của bên thứ ba ngày càng đóng một vai trò ngày càng quan trọng
trong mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ của các trường đại học. Trong bối cảnh đó,
tăng cường khả năng năng giải quyết việc làm của nền kinh tế, xây dựng mô hình đại
học nghiên cứu, và chấp nhận sự giám sát của bên thứ ba là các nhân tố có tính chất
quyết định cho thành công của mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ của các trường đại
học Việt Nam trong thời gian tới. Mặc dù vậy, không bao giờ được phép nhầm lẫn
giữa mục tiêu phục vụ cộng đồng của hệ thống giáo dục đại học tự chủ theo đúng bản
chất của nó với mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hạ Anh (2019), 2 đại học Việt Nam lọt tốp 1.000 bảng xếp hạng uy tín thế giới,
trong: https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/2-dai-hoc-viet-nam-lot-top-1-
000-bang-xep-hang-uy-tin-the-gioi-566880.html (truy cập ngày 3 tháng 3 năm
2020).
2. Nguyệt Anh (2018), Ngân sách cho giáo dục còn nhiều bất cập?, trong:
https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html (truy
cập ngày 4 tháng 3 năm 2020).
3. Hoàng Bách (2019), Hơn 100.000 cử nhân thất nghiệp và sự lãng phí tiền bạc, tuổi trẻ,
trong: https://news.zing.vn/hon-100000-cu-nhan-that-nghiep-va-su-lang-phi-tien-
bac-tuoi-tre-post1000476.html (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020).
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1993, ngày 14 tháng 1), Nghị quyết về tiếp tục
đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Số: 04-NQ/HNTW, ngày 14 tháng 1 năm
1993, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013, ngày 4 tháng 11), Nghị quyết về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, Số: 29-NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013.
6. Lê Văn Bình và Hoàng Văn Liêm (2019), Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài
chính tại Đại học Huế, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển, Tập
128, Số 5A, 2019, tr. 177-178 (169-185).
7. Chính phủ (1993, ngày 10 tháng 12), Nghị định của Chính phủ về việc thành lập
đại học quốc gia Hà Nội, Số: 97/CP. ngày 10 tháng 12 năm 1993, Hà Nội.
8. Chính phủ (1994, ngày 4 tháng 4), Nghị định của Chính phủ Số 30-CP ngày 4-4-
1994 về việc thành lập Đại học Huế, Số: 30-CP, ngày 4 tháng 4 năm 1994, Hà
Nội.
336
9. Chính phủ (1994, ngày 4 tháng 4), Nghị định của Chính phủ Số 31-CP ngày 4-4-
1994 về việc thành lập Đại học Thái Nguyên, Số: 31-CP, ngày 4 tháng 4 năm
1994, Hà Nội.
10. Chính phủ (1994, ngày 4 tháng 4), Nghị định của Chính phủ Số 32-CP ngày 4-4-
1994 về việc thành lập Đại học Đà Nẵng, Số: 32-CP, ngày 4 tháng 4 năm 1994,
Hà Nội.
11. Chính phủ (1995, ngày 27 tháng 1), Nghị định Chính phủ Số: 16/CP ngày 27
tháng 1 năm 1995 về việc thành lập đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
Số: 16-CP, ngày 27 tháng 1 năm 1995, Hà Nội.
12. Chính phủ (2014, ngày 24 tháng 10), Nghị quyết về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt
động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017, Số:
77/NQ-CP, ngày 24 tháng 10 năm 2014.
13. Công báo (2018, ngày 22 tháng 12), Số 1135 + 1136.
14. Đại học Huế (2016), Kế hoạch chiến lược phát triển Đại học Huế giai đoạn 2016-
2020 và tầm nhìn 2030, ban hành kèm theo Quyết định Số 1217/QĐ-ĐHH ngày
28 tháng 9 năm 2016, Huế.
15. Đại học Huế (2019), Đề án phát triển Đại học Huế thành đại học quốc gia, tháng
9 năm 2019, Thừa Thiên Huế.
16. Nguyễn Tấn Dũng (2007), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Quy
hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020, Số:
121/2007/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 7 năm 2007, Hà Nội, trong:
(truy cập ngày 4
tháng 3 năm 2020).
17. Vũ Tiến Dũng, Cao Văn Đan, Lưu Xuân Công (2019), Mở rộng cơ chế tự chủ
đại học ở Việt Nam, trong:
chu-dai-hoc-o-viet-nam-28271.html (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020).
18. Minh Giảng (2019), Báo động chất lượng đại học - Kỳ 2: Khi cử nhân dạy đại
học, trong: https://tuoitre.vn/bao-dong-chat-luong-dai-hoc-ky-2-khi-cu-nhan-day-
dai-hoc-2019060909480538.htm (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020).
19. Thanh Hà (2019), Người giỏi đều tìm cách đi đào tạo ở nước ngoài, trong:
https://tuoitre.vn/nguoi-gioi-deu-tim-cach-di-dao-tao-o-nuoc-ngoai-
20190323144323526.htm (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2020).
20. Trịnh Vĩnh Hà và Trần Huỳnh (2010), Cơ sở vật chất các trường đại học, cao
đẳng, trong: https://tuoitre.vn/co-so-vat-chat-cac-truong-dai-hoc-cao-dang-
411904.htm (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020).
21. Tăng Thu Hằng (2019), Tìm lời giải cho những tồn tại trong đầu tư giáo dục đào
tạo nước ta, trong:
dau-tu-giao-duc-dao-tao-nuoc-ta-n12552.html (truy cập ngày 4 tháng 3 năm
2020).
22. Phan Huy Hùng (2005), Thiết lập môi trường cho sự vận hành tự chủ của hệ thống
đậi học, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số 4, tr. 216-
221.
337
23. Thanh Hùng (2019), Èo uột trường đại học tỉnh, trong:
https://www.sggp.org.vn/eo-uot-truong-dai-hoc-tinh-611483.html (truy cập ngày
28 tháng 3 năm 2020).
24. Trần Quang Huy và Phạm Thị Bích Ngọc (2016), Học hỏi của tổ chức trong bối
cảnh tự chủ đậi học tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 127, tháng 4
năm 2016, tr. 1-9.
25. Trần Huỳnh (2019), Tỉ lệ người học đại học Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế
giới, trong: https://tuoitre.vn/ti-le-nguoi-hoc-dai-hoc-vn-thuoc-loai-thap-nhat-the-
gioi-20190617134102003.htm (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020).
26. Đào Văn Khánh (2004), Bàn về tự chủ và phân cấp quản lý đào tạo trong trường
đại học, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số 1, tr. 179-189.
27. L.Đ (2009), Năm 2020 Việt Nam sẽ có trường Đại học nằm trong top 200 thế giới?,
trong: https://thethaovanhoa.vn/the-gioi/nam-2020-viet-nam-se-co-truong-
dai-hoc-nam-trong-top-200-the-gioi-n2009020802011568.htm (truy cập
ngày 3 tháng 3 năm 2020).
28. Thùy Linh (2018), Đại học địa phương và con đường khấp khểnh khó đi, trong:
https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/dai-hoc-dia-phuong-va-con-duong-khap-
khenh-kho-di-post186682.gd (truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2020).
29. Đỗ Đức Minh (2018), Cơ chế quản trị đại học tự chủ và yêu cầu hoàn thiện pháp
luật tự chủ đại học ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật
học, Tập 34, Số 4, tr. 62-74.
30. Nguyễn Thị Yến Nam (2013), Bước đầu tìm hiểu về quản lí tài chính trong giáo
dục đại học theo hướng tự chủ, Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM, Số 54, tr.
155-164.
31. Nguyễn Thị Nguyệt (2019), Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp
công lập, trong:
chinh-cua-nhung-don-vi-su-nghiep-cong-lap-60970.htm (truy cập ngày 24 tháng 9
năm 2019).
32. Nguyễn Việt Phương (2019), Tăng cường tự chủ chương trình đào tạo – yếu tố
căn bản nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học Việt Nam, Tạp chí
Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4 năm 2019, tr. 96-99, 123.
33. Quốc hội (2005, ngày 14 tháng 6), Luật Giáo dục của Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005, ngày 14
tháng 6 năm 2005, Hà Nội.
34. Quốc hội (2012, ngày 18 tháng 6), Luật Giáo dục đại học, Luật số:
08/2012/QH13, ngày 18 tháng 6 năm 2012, Hà Nội.
35. Quốc Hội (2018, ngày 22 tháng 12), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục đại học (Luật số: 34/2018/QH14), Công báo, Số 1135 + 1136, tr. 85-86.
36. Quốc hội (2018, ngày 19 tháng 11), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục đại học, Luật số: 34/2018/QH14, Ngày 19 tháng 11 năm 2018, Hà Nội.
37. Quốc hội (2019, ngày 16 tháng 6), Luật Giáo dục, Luật số: 43/2019/QH14, ngày
14 tháng 6 năm 2019, Hà Nội.
338
38. Trương Thanh Quý (2019), Tự chủ trong các trường đại học công lập ở Việt
Nam: Thách thức và giải pháp, trong:
trong-cac-truong-dai-hoc-cong-lap-o-Viet-Nam.aspx (truy cập ngày 24 tháng 9
năm 2019).
39. Thanh tra Chính phủ (2015), Thông báo kết luận thanh tra Số 880/TB-TTCP về
trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25/4/2006 của Chính phủ tại Đại học Huế, Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 2015.
40. Thủ tướng Chính phủ (2003, ngày 30 tháng 7), Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ Số 153/2003/QĐ-TTG ngày 30 tháng 7 năm 2003 về việc ban hành “Điều lệ
trường đại học,” Số: 153/2003/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 7 năm 2003, Hà Nội.
41. Thủ tướng Chính phủ (2014, ngày 21 tháng 12), Điều lệ trường đại học (Ban hành
kèm theo Quyết định Số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10 tháng 12 năm 2014 của Thủ
tướng Chính phủ), Công báo, Số 1075+1076.
42. Thủ tướng Chính phủ (2014, ngày 10 tháng 12), Quyết định ban hành Điều lệ
trường Đại học, Số: 70/2014/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 12 năm 2014, Hà Nội.
43. Trần Sông Thương (2018), Tự chủ tài chính giáo dục đại học và một số vấn đề đặt
ra, trong:
dai-hoc-va-mot-so-van-de-dat-ra-301206.html (truy cập ngày 24 tháng 9 năm
2019).
44. Nguyễn Thu Thủy và Trần Tú Uyên (2019), 10 năm, số lượng công bố quốc
tế của Việt Nam tăng gần 5 lần, trong: https://dantri.com.vn/giao-duc-
khuyen-hoc/10-nam-so-luong-cong-bo-quoc-te-cua-viet-nam-tang-gan-5-
lan-20190115081238291.htm (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020).
45. Trường Đại học Hoa Lư (2019), Báo cáo Thực hiện Quy chế công khai năm
học 2018-2029 và Kế hoạch triển khai Quy chế công khai năm học 2019-
2020, trong:
(truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020).
46. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đại học quốc gia Hà Nội (2019),
Báo cáo ba công khai năm học 2019-2020, Số 4874/XHNV-KHTC, ngày 24
tháng 12 năm 2019, Hà Nội.
47. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2019), Thông báo Công khai tài chính của
trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2019-2020, Hà Nội.
48. Trường Đại học Phú Yên (2018), Công khai thông tin cơ sở vật chất của Trường
Đại học Phú Yên, năm học 2018-2019, trong:
khai/cong-khai-thong-tin-co-so-vat-chat-cua-truong-dai-hoc-phu-yen-nam-hoc-
2018-2019 (truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020).
49. Trường Đại học Quảng Nam (2018),
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_tu_chu_dai_hoc_cua_nha_nuoc_va_nang_luc_thuc_te_c.pdf