Khái niệm : Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần. Cổ tức có thể được trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu.
+ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu là là việc phân bổ theo tỷ lệ các cổ phần bổ sung của 1 công ty cho các cổ đông
+ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu là các hình thức công ty phát hành thêm những cổ phiếu của chính công ty đó tương ứng với phần lợi nhuận sau thuế dành trả cổ tức và phân phối cho cổ đông theo tỷ lệ cổ phần mà họ đang nắm giữ
Chúng ta có thể thấy các công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu trong các trường hợp sau :
+ Công ty sử dụng cổ phiếu được quyền phát hành nhưng chưa lưu hành để trả cổ tức
+ Công ty cổ phần sử dụng cổ phiếu quỹ để trả cổ tức
Việc các công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu xuất phát từ việc thị giá của cổ phiếu công ty trên thị trường đạt mức giá cao và công ty muốn giảm giá thị trường của cổ phiếu để gia tăng lượng các giao dịch mua bán của cổ phiếu công ty đó ,hoặc công ty không đủ tiền mặt để chi trả cổ tức cho cổ đông
Ở một tỉ lệ chi trả cổ phiếu ở tỷ lệ thấp thì chúng ta có thể coi việc này như chi trả cổ tức bằng tiền mặt vì nó không làm ảnh hưởng đáng kể đến giá cổ phiếu
Bằng việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu này thì các công ty cổ phần đã thực hiện việc giảm giá trị thị trường của cổ phiếu .Điều này đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư cổ phiếu đó trên thị trường chứng khoán là người được lợi đầu tiên từ hành động đó của công ty.Khi thị giá của cổ phiếu ở mức thị giá cao thì đồng nghĩa với việc nhà đầu tư sẽ gặp khó khăn khi bán các cổ phiếu đó trên thị trường do lượng khách hàng muốn mua bị thu hẹp ở mức giá cao.Khi thực hiện việc trả cổ tức băng cổ phiếu thì nó đã làm giảm đáng kể thị giá của cổ phiếu và đồng nghĩa với nó là việc một lượng các nhà đầu tư khác có nhu cầu và muốn mua cổ phiếu đó tăng lên hay nói cách khác bằng việc trả cổ tức bằng cổ phiếu đã làm tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu đó.Với hành động chi trả cổ phiếu bằng cổ tức này công ty đã gián tiếp quảng cáo về hình ảnh của công ty vì khi thực hiện nghiệp vụ chi trả cổ tức dưới hình thức cổ phiếu này thì công ty đã thông báo việc chi trả cổ tức trên các kênh thông tin đại chúng.Với các nhà đầu tư việc một công ty với các tiềm năng phát triển trong dài hạn thì việc họ trả cổ tức bằng cổ phiếu đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư khác có thêm cơ hội để đầu tư vào công ty và gia tăng lợi nhuận theo kì vọng của họ
10 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái niệm : Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần. Cổ tức có thể được trả bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu.
+ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu là là việc phân bổ theo tỷ lệ các cổ phần bổ sung của 1 công ty cho các cổ đông
+ Chi trả cổ tức bằng cổ phiếu là các hình thức công ty phát hành thêm những cổ phiếu của chính công ty đó tương ứng với phần lợi nhuận sau thuế dành trả cổ tức và phân phối cho cổ đông theo tỷ lệ cổ phần mà họ đang nắm giữ
Chúng ta có thể thấy các công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu trong các trường hợp sau :
+ Công ty sử dụng cổ phiếu được quyền phát hành nhưng chưa lưu hành để trả cổ tức
+ Công ty cổ phần sử dụng cổ phiếu quỹ để trả cổ tức
Việc các công ty chi trả cổ tức bằng cổ phiếu xuất phát từ việc thị giá của cổ phiếu công ty trên thị trường đạt mức giá cao và công ty muốn giảm giá thị trường của cổ phiếu để gia tăng lượng các giao dịch mua bán của cổ phiếu công ty đó ,hoặc công ty không đủ tiền mặt để chi trả cổ tức cho cổ đông
Ở một tỉ lệ chi trả cổ phiếu ở tỷ lệ thấp thì chúng ta có thể coi việc này như chi trả cổ tức bằng tiền mặt vì nó không làm ảnh hưởng đáng kể đến giá cổ phiếu
Bằng việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu này thì các công ty cổ phần đã thực hiện việc giảm giá trị thị trường của cổ phiếu .Điều này đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư cổ phiếu đó trên thị trường chứng khoán là người được lợi đầu tiên từ hành động đó của công ty.Khi thị giá của cổ phiếu ở mức thị giá cao thì đồng nghĩa với việc nhà đầu tư sẽ gặp khó khăn khi bán các cổ phiếu đó trên thị trường do lượng khách hàng muốn mua bị thu hẹp ở mức giá cao.Khi thực hiện việc trả cổ tức băng cổ phiếu thì nó đã làm giảm đáng kể thị giá của cổ phiếu và đồng nghĩa với nó là việc một lượng các nhà đầu tư khác có nhu cầu và muốn mua cổ phiếu đó tăng lên hay nói cách khác bằng việc trả cổ tức bằng cổ phiếu đã làm tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu đó.Với hành động chi trả cổ phiếu bằng cổ tức này công ty đã gián tiếp quảng cáo về hình ảnh của công ty vì khi thực hiện nghiệp vụ chi trả cổ tức dưới hình thức cổ phiếu này thì công ty đã thông báo việc chi trả cổ tức trên các kênh thông tin đại chúng.Với các nhà đầu tư việc một công ty với các tiềm năng phát triển trong dài hạn thì việc họ trả cổ tức bằng cổ phiếu đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư khác có thêm cơ hội để đầu tư vào công ty và gia tăng lợi nhuận theo kì vọng của họ
Nói cách khác cổ tức cổ phần là một sự gia tăng một lượng cổ phần của doanh nghiệp với các cổ phần mới được chia cho các cổ đông hiện hữu của mình . Ví dụ, nếu một công ty quyết định trả cổ tức cổ phần 5%, nó sẽ gia tăng số lương cổ phần lên 5%. Nếu doanh nghiệp có 1 triệu cổ phần, có nghĩa là doanh nghiệp sẽ có thêm 50.000 cổ phần nữa. Nếu bạn sở hữu 100 cổ phần trong công ty, bạn sẽ nhận được 5 cổ phần tăng thêm nữa.Song cổ tức cổ phần giống như cổ tức tiền mặt, cổ tức cổ phần không làm gia tăng giá trị của công ty. Nếu một cổ phần doanh nghiệp có giá là 10 USD một cổ phần, thì giá trị công ty sẽ là 10 triệu USD. Sau khi cổ tức cổ phần được chia, giá trị doanh nghiệp vẫn như cũ, nhưng giá trị mỗi cổ phần sẽ giảm xuống 9.52 USD một cổ phần để điều chỉnh cho khoản cổ tức đã được chia. Lợi thế của cổ tức cổ phần ở đây chỉ đơn giản là mang đến cho cổ đông sự lựa chọn. Các cổ đông có thể giữ cổ phần và hi vọng công ty sẽ có thể sử dụng tiền đó để tạo ra một tỷ suất sinh lợi tốt hơn hoặc các cổ đông có thể bán một số cổ phần mới để tạo ra cổ tức tiền mặt cho riêng mình. Lợi ích lớn nhất của cổ tức cổ phần là các cổ đông không bị đánh thuế trên giá trị cổ tức nhận được. Cổ tức cổ phần được cho là tốt hơn so với cổ tức tiền mặt nếu chúng không đi kèm với quyền chọn cổ tức tiền mặt. Điều này đơn giản chỉ bởi chúng ta đang so sánh giữa cổ tức cổ phần và cổ tức tiền mặt. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là cổ tức tiền mặt không tốt, đơn giản là cổ tức tiền mặt không có sự lựa chọn nào ngoài việc bạn phải nhận tiền mặt. Cổ đông vẫn có thể tái đầu tư từ cổ tức tiền mặt vào công ty thông qua các dự án tái đầu tư từ cổ tức. Ưu điểm lớn nhất của tiền mặt là tính thanh khoản rất cao, cầm tiền mặt trong tay bao giờ cũng chắc chắn hơn là bạn cầm cổ phiếu trong tay. Hơn nữa, việc đánh thuế trên cổ tức tiền mặt được nhận vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Nếu bạn là nhà đâu tư ngại rủi ro và muốn chắc chắn thì có lẽ bạn sẽ yêu thích cổ tức tiền mặt hơn, vì giá trị của chúng rất chắc chắn. Và các doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng tiền mặt có thể là một sự lựa chọn của bạn.Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2007 không có tính thống nhẩt trong phương thức chi trả cổ tức. Phần lớn các doanh nghiệp đều trả cổ tức hai lần một lần, có thể kể đến như: Công ty cổ phần TM-XNK Thiên Nam (TNA), Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (VNM), CTCP Khách sạn Sài Gòn (SGH), Công ty cổ phần Khoáng sản Bình Định (BMC), Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh (BMP)… Có doanh nghiệp lại chia cổ tức 3 lần một năm như CTCP Đầu tư Thương mại SMC (SMC), Công ty Cổ phần Phát triển Nhà Thủ Đức. Và cũng có những doanh nghiệp chỉ chi trả cổ tức theo năm như CTCP Vật liệu xây dựng Lâm Đồng (LBM) hay CTCP Nhựa Đà Nẵng (DPC), Công ty cổ phần Nước giải khát Sài Gòn (TRI), Công ty cổ phần Khu công nghiệp Tân Tạo (ITA), Công ty CP Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT
Trong giai đoạn thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là bước vào giai đoạn “hoàng kim” từ cuối năm 2006, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO. Với sự tham gia mạnh mẽ mang tính xúc tác của khối đầu tư nước ngoài, giá của tất cả cổ phiếu niêm yết tăng nhanh chóng, VN-Index lên điểm mạnh mẽ, từ khoảng 500 điểm lên đến đỉnh 1.179,32 điểm ngày 12/3/2007. Diễn biến của thị trường chứng khoán trở thành tâm điểm trên rất nhiều mặt báo cũng như các mạng truyền thông khác (thậm chí cho đến nay).
Tranh thủ cơ hội trên, việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn cũng được nhiều công ty niêm yết, công ty chứng khoán và công ty đại chúng khác tận dụng tối đa. Nhiều công ty trong vòng 1 năm đã tổ chức 2 lần phát hành thêm cổ phiếu.
Tại thời điểm đó, thì việc tăng vốn nói chung, dù được thực hiện để làm gì (tài trợ cho các dự án, xây nhà máy mới, mua tàu biển mới... hay chỉ cần lý do là tăng vốn điều lệ) hay dưới hình thức nào đi chăng nữa (phát hành cổ phiếu thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu hay phát hành quyền mua cổ phiếu mới) đều được cổ đông ủng hộ nhiệt liệt, đơn giản là cổ phiếu cho dù được điều chỉnh giảm theo tỷ lệ phân phối thì cũng vẫn tiếp tục tăng giá. Mức cổ tức bằng tiền mặt không thể nào bằng mức lãi do chênh lệch giá
Đó là những thông tin khá tốt với các nhà đầu tư trong thời kì được gọi là hưng thịnh của thị trường chứng khoán việt nam khi các công ty công bố việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu.Nhưng bên cạnh những mặt ưu thế của việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu đối với các nhà đầu tư ,Nhưng mặt khác băng hình thức này các nhà đầu tư phải chấp nhận những rủi ro như :
Khi thị trường biến động thì nhà đầu tư càng nắm nhiều cổ phiếu càng lỗ. Cắt lỗ là mục tiêu hàng đầu, nhưng đôi khi trong các đợt phát hành, nhà đầu tư nếu còn nắm cổ phiếu (thực tế có mấy ai hoàn toàn cắt được lỗ?) trước ngày chốt sổ cổ đông thì buộc phải nhận (hoặc mua) cổ phiếu mới, nếu không phải chịu thêm khoản lỗ do điều chỉnh giá tham chiếu. Ngoài ra, các cổ phiếu mới phải mất 1-2 tháng mới về tài khoản, do đó lỗ càng thêm nặng. Cổ tức bằng tiền mặt, tuy ít những cũng trở thành một khoản thu nhập thật sự. Do đó nhiều người từ chối việc phát hành thêm cổ phiếu, và họ thấy rằng cùng nhau phản đối tại các cuộc họp đại hội cổ đông mới có hy vọng khiến cho đợt phát hành không được thực hiện.
Chúng ta thấy rằng ở đây xảy ra mâu thuẫn trong việc theo đuổi quyền lợi giữa đôi bên: doanh nghiệp và cổ đông. Mâu thuẫn này xuất phát từ sự khác biệt trong chính mục tiêu đầu tư giữa các cổ đông lớn (vốn gắn liền lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của chính mình trong dài hạn) và cổ đông nhỏ (vốn chỉ là cổ đông “tạm thời” – do “lướt sóng”, hay đầu tư ngắn hạn) của cùng một công ty, và sâu xa hơn, nó xuất phát từ sự “ngộ nhận” của nhiều nhà đầu tư cũng như sự “nuông chiều” của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2007
Ngộ nhận đó là : Không phải cổ phiếu nào có tỷ lệ chi trả cổ tức cao cũng là cổ phiếu tốt. Ta nhận thấy một thực tế về cổ tức ở các doanh nghiệp như sau : Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty cổ phần đại chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn cân nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng thời 3 mục tiêu: làm hài lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm bảo luôn có tái đầu tư để phát triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn định để dự phòng cho cả những năm kinh doanh không như mong đợi. Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh nghiệp – hơn ai hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc nào công ty cần vốn và cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn của mình, cũng như lúc nào mới bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông.Do đó trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn giúp doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, tăng vốn điều lệ để mở rộng thêm các hạn mức cho vay hay huy động vốn (đối với ngành ngân hàng), đồng thời giúp cho giá cổ phiếu trở nên “rẻ hơn nữa” và mang lại tâm lý không thể “down” thêm được trong giới đầu tư. Sâu xa hơn, việc trả cổ tức này sẽ gia tăng giá trị cho cổ đông trong tương lai, căn bản vẫn dựa trên hiệu quả kinh doanh của chính doanh nghiệp.
Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức, vì khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai. Nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế doanh nghiệp lại đang rất cần vốn , công ty có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản chất của việc trả cổ tức bằng cổ phiếu là một cam kết tái đầu tư của cổ đông để sau đó chính cổ đông sẽ thu được nhiều hơn nữa lợi nhuận trong tương lai.
Trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán được điều chỉnh giảm xuống và trở nên “rẻ hơn nữa” trong con mắt của nhà đầu tư, đặc biệt khi thị trường đang lên. Khi thị trường chứng khoán “đảo chiều”, nhà đầu tư còn gánh thêm rủi ro do việc “cắt lỗ không thành công” do cổ phiếu mới phát hành chưa kịp về đến tài khoản để bán đi. Do đó, họ sẽ không chấp nhận việc công ty phát hành thêm cổ phiếu, cho dù chỉ để trả cổ tức (trường hợp này nhà đầu tư không phải nộp tiền giống như phát hành quyền).
Cộng thêm vào đó là các quy định của pháp luật liên quan đến việc chia cổ tức của các công ty giai đoạn 2007 đã có phần đơn giản, trước kia trước mỗi đợt phát hành cổ phiếu mới để trả cổ tức, các công ty niêm yết phải xin phép Ủy ban chứng khoán Nhà nước kèm theo các tài liệu chứng minh nguồn vốn hợp pháp dùng để phát hành, không lạm vào vốn điều lệ thì hiện nay Hội đồng quản trị được toàn quyền quyết định. Nhiều trường hợp, cổ đông lại... ép HĐQT chia cổ tức bằng cổ phiếu nhằm kích giá cổ phiếu trên thị trường.Trong thời kỳ thị trường chứng khoán bong bóng ở giai đoạn 2006-2007, nhiều doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả đã phát hành được cổ phiếu với giá cao và nhờ vậy, thu về nhiều lợi nhuận. Trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng là những hình thức huy động vốn trong ngắn hạn nhằm giảm tỷ lệ trả cổ tức bằng tiền mặt trong một vài năm với mục đích tiết kiệm vốn để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp lấy nguồn lợi nhuận từ đâu để chia cổ tức bằng cổ phiếu. Trong đa số các trường hợp, phải là các doanh nghiệp luôn kinh doanh hiệu quả mới có nguồn lợi nhuận để chia cổ phiếu. Doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ không thể có lợi nhuận để chia cổ phiếu song cũng không hiếm doanh nghiệp cứ... lạm dụng hình thức này.
Thêm nữa ,đối với các cổ đông chiếm giữ các cổ phiếu mà thị giá quá cao , ban lãnh đạo DN hoàn toàn có thể dùng chiêu chia cổ tức bằng CP này để có nhiều... CP lẻ (do tỷ lệ chia quá thấp), để được mua lại giá hời! Ngược lại, nếu vẫn muốn tăng số CP cho cổ đông hiện hữu, DN có thể 'lách" bằng chia CP thưởng, lấy từ nguồn lợi nhuận chưa phân phối hoặc thực hiện chia tách CP!
Vậy các nhà đầu tư nên lưu ý một số điểm sau trước những thông tin về việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu:
- Nhà đầu tư phải kiểm tra mức độ tin cậy của tin đồn, lợi nhuận tích lũy và các quỹ có đủ để thực hiện việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu theo tin đồn đó hay không, lý do thúc đẩy doanh nghiệp chia cổ phiếu.
- Việc chia cổ phiếu không làm thay đổi nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhưng làm tăng số lượng cổ phiếu lưu hành, sẽ dẫn đến lợi nhuận trên đầu mỗi cổ phiếu tạm thời giảm xuống. Vì thế, nhà đầu tư cần đánh giá lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp trong 12 tháng tới có tăng lên nhiều hay không, nếu lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp trong vòng 12 tháng tới tăng nhiều thì tùy theo EPS dự phóng đó mà nhà đầu tư sẽ kỳ vọng mức giá cổ phiếu tăng tương ứng. Nếu lợi nhuận doanh nghiệp không có xu hướng tăng mạnh trong vòng 12 tháng tới thì việc chia cổ phiếu sẽ khó làm cho giá cổ phiếu tăng như kỳ vọng.
- Nhà đầu tư cần có một cách đánh giá định lượng về khoảng giá mà cổ phiếu có thể tăng khi có thông tin về việc chia cổ phiếu để có quyết định mua bán phù hợp, tránh chạy theo đám đông mà mua phải cổ phiếu ở mức đỉnh giá hoặc bán cổ phiếu quá sớm khi tiềm năng tăng giá cổ phiếu vẫn còn.
Vậy còn với các doanh nghiệp thì sao ? Như đã nói ở trên khi chia cổ tức bằng cổ phiếu thì trả cổ tức bằng cổ phiếu vẫn giúp doanh nghiệp giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, tăng vốn điều lệ để mở rộng thêm các hạn mức cho vay hay huy động vốn (đối với ngành ngân hàng), đồng thời giúp cho giá cổ phiếu trở nên “rẻ hơn nữa” và mang lại tâm lý không thể “down” thêm được trong giới đầu tư và khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai.
Trên thực tế, việc chia cổ tức bằng CP của DN giống như cách DN bỏ một phần tiền từ túi bên trái (vốn được đánh dấu bằng chữ “Lợi nhuận") sang túi bên phải (được ghi là "Vốn góp cổ phần ")! Do đó, nghiệp vụ chia cổ tức bằng CP chỉ là một hình thức khẳng định chắc chắn: DN được cổ đông đồng ý cho giữ cổ tức lại để tái đầu tư, mà không có bất kỳ một dòng tiền mới nào vào - ra DN.
Khác biệt lớn nhất cho DN sau nghiệp vụ này là số CP tăng lên, tức áp lực làm đẹp báo cáo tài chính trong các năm tiếp theo cũng tăng lên. Do đó, nếu tính giá trị CP chia cổ tức theo giá nào thì DN cũng chẳng có gì thay đổi trong cơ cấu tài chính (cái khác là tỷ lệ chia cổ tức của DN và cách điều chỉnh giá trên thị trường)!
Nhưng nhìn ở góc độ tích cực, áp lực này cũng khiến DN phải chịu sức ép tăng hiệu quả kinh doanh, nên nếu cho rằng có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lâu dài của DN là chưa chuẩn xác.
Trong khi đó, việc chia cổ tức bằng tiền của DN lại làm giảm đi một lượng tiền tương ứng. Điều này sẽ là bình thường nếu DN không có nhu cầu huy động vốn mới để tiếp tục đầu tư, nhưng với các DN có ý định mở rộng kinh doanh, rõ ràng, đây không phải là hướng lựa chọn tối ưu.
Vậy lí do từ đâu để các doanh nghiệp lựa chọn hình thức chi trả cổ tức này :
- Trong một thị trường đang hồi phục mạnh mẽ như thời gian qua, việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu sẽ là một tin hết sức hấp dẫn với cổ đông và góp phần đẩy giá cổ phiếu lên cao. Khi thị trường đang sôi động và trào lưu chia cổ phiếu đang thịnh hành, việc doanh nghiệp đứng ngoài cuộc chơi cũng có thể gây thiệt thòi cho cổ đông trong khi các doanh nghiệp lại thực hiện việc chia cổ phiếu.
- Một số mã cổ phiếu đã tăng giá quá cao, khả năng tăng tiếp sẽ khó hơn, khi giá quá cao thì thường tính thanh khoản cổ phiếu sẽ thấp, vì thế việc chia cổ tức hoặc thưởng bằng cổ phiếu sẽ tạm thời điều chỉnh giá cổ phiếu giảm xuống, tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu cũng như gia tăng tiềm năng tăng giá tiếp tục của cổ phiếu.
- Thông thường trong một nền kinh tế đang có xu hướng phục hồi, các doanh nghiệp dự báo được lợi nhuận trong vòng 12 tháng tới của doanh nghiệp sẽ tiếp tục tăng, nên sau khi chia cổ tức hoặc thưởng bằng cổ phiếu, số lượng cổ phiếu tuy có tăng thêm nhưng lợi nhuận vẫn tăng tương ứng, vì thế giá cổ phiếu sau thời điểm chốt quyền vẫn có xu hướng tăng tiếp tục.
- Việc chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu sẽ làm tăng vốn điều lệ, điều này có nghĩa phần lợi nhuận hay các quỹ để lại sẽ được giữ lại mãi mãi cho doanh nghiệp, khi đó doanh nghiệp sẽ có thêm một nguồn vốn dài hạn để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên khi số lượng cổ phiếu tăng lên thì doanh nghiệp phải có thêm trách nhiệm đối với cổ đông và áp lực chia cổ tức trên mỗi cổ phiếu sau này.
- Một trong những tiêu chí để ngân hàng xem xét các khoản vay lớn, các đối tác ký các hợp đồng lớn hay các quy định khác của pháp luật có liên quan đến vốn điều lệ thì thường các doanh nghiệp có vốn điều lệ lớn sẽ có những lợi thế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn vốn lớn và các hợp đồng lớn…, vì thế khi thị trường thuận lợi, các doanh nghiệp sẽ tranh thủ chia cổ tức hay thưởng bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
- Một lý do khác mà các doanh nghiệp tranh thủ chia cổ tức và thưởng bằng cổ phiếu là để tránh thuế thu nhập cho cổ đông
Thực tế ở Việt Nam, có ý kiến cho rằng cổ đông buộc Hội đồng Quản trị (HĐQT) phải chia cổ tức bằng cổ phiếu để làm giá ngắn hạn xuất phát từ thực trạng là có những cổ phiếu sau khi có thông tin chia cổ tức bằng cổ phiếu thì giá tăng đáng kể, ít nhất là trong ngắn hạn.Một công ty phải được quyền tự chủ về các quyết định của mình để hướng về nhóm nhà đầu tư họ muốn phục vụ. Trách nhiệm của nhà làm luật và quản lý thị trường nên làm sao cho thị trường có đủ thông tin để “trừng phạt” những công ty chỉ nhắm đến lợi ích ngắn hạn của một số nhà đầu tư, của ban lãnh đạo công ty chứ không nhắm tới lợi ích lâu dài.Thực trạng này dường như bắt đầu sôi động vào giai đoạn 2004 - 2007 khi mà xu thế tăng giá của toàn thị trường đang bước sang một chu kỳ tăng ấn tượng không ngừng nghỉ. Nhiều bài báo trong giai đoạn này cũng nhìn nhận, tình hình tranh nhau mua cổ phiếu có thông tin chia cổ tức bằng cổ phiếu, thưởng cổ phiếu... Khi đó nhiều doanh nghiệp chọn chia cổ tức bằng cổ phiếu hơn là cổ tức tiền mặt vì cổ đông thích như vậy. Vì vậy, nói một cách nào đó, việc chọn chia cổ tức bằng cổ phiếu hay tiền mặt là do HĐQT xét thấy nên làm gì để “vui lòng” nhà đầu tư (hay chính xác hơn là số đông nhà đầu tư có tham gia biểu quyết).
Như vậy, gốc rễ của vấn đề có làm giá hay không thông qua việc chia cổ tức bằng cổ phiếu là do chất lượng của HĐQT và chất lượng quản trị công ty (corporate governance). Nếu HĐQT thấy giá cổ phiếu đang quá cao, phát hành thêm cổ phiếu để làm giá rồi giúp một số cổ đông bán ra nhiều cổ phiếu hơn với giá cao hơn trước khi giá giảm về mức hợp lý, đó cũng là quyết định kinh doanh để “làm vừa lòng các ông chủ”. Nó có làm tổn hại đến cổ đông nhỏ, cổ đông đến sau hay không là tùy thuộc vào chất lượng quản trị công ty của doanh nghiệp đó. Nếu công ty có chất lượng quản trị tốt, không nhắm tới lợi ích ngắn hạn, chỉ chia cổ tức bằng cổ phiếu khi thấy có cơ hội đầu tư tốt, hay vì chỉ muốn tăng thanh khoản cho việc giao dịch cổ phiếu này dễ dàng thì việc giá cổ phiếu công ty này tăng sau khi có tin chia cổ tức bằng cổ phiếu mà cũng bị gọi là làm giá thì có phần gây tiếng xấu cho doanh nghiệp
Qua những phân tích trên, có thể thấy vấn đề làm giá trong chia cổ tức bằng cổ phiếu xuất phát từ gốc rễ của nó, đó là chất lượng quản trị công ty và sự thiếu minh bạch thông tin trên thị trường khiến nhiều công ty nhắm tới mục tiêu làm giá hưởng lợi ngắn hạn cho một số cổ đông và tổn hại lợi ích của những nhà đầu tư khác. Một công ty phải được quyền tự chủ về các quyết định của mình để hướng về nhóm nhà đầu tư họ muốn phục vụ. Trách nhiệm của nhà làm luật và quản lý thị trường nên làm sao cho thị trường có đủ thông tin để “trừng phạt” những công ty chỉ nhắm đến lợi ích ngắn hạn của một số nhà đầu tư, của ban lãnh đạo công ty chứ không nhắm tới lợi ích lâu dài. Thay vì lo vá những lỗ hổng nhỏ này có lẽ nên dành nhiều công sức để nâng cao chất lượng thông tin, chất lượng quản trị công ty và vai trò cung cấp thông tin từ các nhà phân tích của các định chế tài chính nhằm giúp thị trường dần dần ổn định, không bị dẫn dắt lệch lạc bởi chuyện “thưởng” cổ phiếu.
Đó là những vấn đề về việc lợi ích của việc chia cổ tức theo hình thức này và nguyên do tại sao trong giai đoạn 2007 khá nhiều công ty lựa chọn hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu .Hình thức đó chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn cho công ty trong thời gian ngắn nhưng lại đẩy các công ty phải nỗ lực kinh doanh hiệu quả ,Hệ quả tất yếu là các công ty làm ăn tốt thì không sao nhưng các công ty làm ăn không hiệu quả sau khi chi trả cổ tức thì họ buộc phải dùng các khoản lợi nhuận khác hoặc cắt giảm các khoản chí phí hàng tồn kho hay nợ đọng để có một bản báo cáo tốt làm hài lòng các nhà đầu tư ,Nếu việc này diễn ra trong thời gian lâu nó sẽ ảnh hưởng đến công ty do việc lãi ảo lỗ thực gây ra
Đồng thời khi đưa ra các chiến lược kinh doanh công ty cần cân nhắc đến sự tác động của nó đến tâm ký nhà đầu tư
Kết luận : Việc chi trả cổ tức bằng cổ phiếu đối với các doanh nghiệp giúp các doanh nghiệp tăng giá cổ phiếu trên thị trường với các cổ phiếu mà thị giá của chúng đang ở mức cao đồng thời tạo điều kiện cho việc quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của cong ty.khắc phục giới hạn của công cụ vay nợ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh .tiết kiệm chi phí so với phát hành cổ phiếu mới ra công chúng và giúp cổ đông hiện hữu hoãn thuế thu nhập cá nhân so với việc trả cổ tức bằng tiền mặt .Nhưng bên cạnh đó là những bất lợi đó là :đòi hỏi khoản chi phí về thủ tục lớn hơn trả cổ tức bằng tiền.đồng thời là việc giảm thu nhập trên 1 cổ phần(EPS)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chi_tra_co_tuc_bang_co_phieu_2.doc