Trên cơ sở lý thuyết của Michael Spence về vấn đề thông tin bất cân xứng trong
thị trường lao động, J. Stiglitz đã phát triển lý thuyết của mình và nêu lên biện pháp
khắc phục những hạn chế do thông tin bất cân xứng gây ra. Theo Stiglitz, bất cứ hàng
hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như chất lượng khác nhau, mẫu mã
khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao động cũng có lao động có khả
năng, tay nghề cao và lao động có khả năng, tay nghề thấp. Vì vậy không thể trả
lương theo một mức lương cân bằng. Để khuyến khích người có khả năng cao, tạo ra
năng suất lao động cao thì cần phải trả lương cao để khuyến khích họ. Đối với người
có khả năng thấp, việc cố gắng đạt được một mức năng suất sản xuất để nhận được
lương cao sẽ tốn chi phí rất lớn so với người có khả năng cao.
17 trang |
Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Chi phí giao dịch và sự thông tin bất cân xứng trong thị trường tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng lao động. Người
bán là những ứng cử viên đi xin việc và người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển
dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của ứng cử viên mà chỉ có thể đánh
giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những người kém năng lực phải mất
nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có năng lực để đạt được cùng trình độ học
vấn thì những người có năng lực có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được những bằng
cấp mà người kém năng lực không thể đạt được.
Đối với thị trường tài chính, để giao dịch được hiệu quả thì người đi vay có thể
vay được vốn với chi phí thấp, người cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ hay
người cho vay và đi vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng mình. Thông
thường người đi vay là người nắm rõ thông tin về mình nhất thế nên họ sẽ được lợi
nhiều hơn trong giao dịch. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàng cho vay nếu như
họ không biết rõ về khách hàng của mình. Thế nên, người đi vay phải phát tín hiệu
rằng mình là người có khả năng trả được nợ tốt. Vấn đề phát tín hiệu trong trường hợp
này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh tiếng ty, năng lực tài chính, tài sản đảm
bảo… Ngược lại ngân hàng cũng phải phát tín hiệu để người đi vay thực hiện trách
nhiệm của mình trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản, lãi suất cho vay…
Cũng giống như thị trường tài chính, nhà đầu tư khi mua cổ phiếu của một công
ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, ít nhiều họ cũng cần biết công ty đó hoạt
động ra sao, sản xuất cái gì, v.v… Vì thế công ty muốn nâng cao vị thế, bán cổ phiếu
với giá cao và hợp lý, nó phải cho nhà đầu tư thấy được danh tiếng, hiệu quả hoạt
động và tiềm năng phát triển của nó. Hay một ví dụ khác, việc triển khai các chương
Nhóm 6
Chi Phí Giao Dịch & Khái Niệm Thông Tin Bất Cân Xứng Page 14
trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức
cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu trên thương trường.
2.4.2. Cơ chế sàng lọc
Trên cơ sở lý thuyết của Michael Spence về vấn đề thông tin bất cân xứng trong
thị trường lao động, J. Stiglitz đã phát triển lý thuyết của mình và nêu lên biện pháp
khắc phục những hạn chế do thông tin bất cân xứng gây ra. Theo Stiglitz, bất cứ hàng
hóa nào cũng đều có những đặc tính khác nhau như chất lượng khác nhau, mẫu mã
khác nhau nên cần phải phân loại chúng. Đối với lao động cũng có lao động có khả
năng, tay nghề cao và lao động có khả năng, tay nghề thấp. Vì vậy không thể trả
lương theo một mức lương cân bằng. Để khuyến khích người có khả năng cao, tạo ra
năng suất lao động cao thì cần phải trả lương cao để khuyến khích họ. Đối với người
có khả năng thấp, việc cố gắng đạt được một mức năng suất sản xuất để nhận được
lương cao sẽ tốn chi phí rất lớn so với người có khả năng cao. Vì vậy việc phân nhóm
lao động để trả lương là việc làm cần thiết để khuyến khích những người có khả năng
nâng cao trình độ và mang lại hiệu quả cao cho xã hội. Cơ chế sàng lọc mà Stiglitz
nêu lên không chỉ được ứng dụng trong thị trường lao động mà còn được ứng dụng
rộng rãi trong nhiều thị trường khác nhau.
Để hạn chế sự lựa chọn bất lợi của mình, các ngân hàng thường áp dụng hạn
mức tín dụng khác nhau đối với mỗi đối tượng vay, dự án vay và thời hạn vay. Đối
với tổ chức bảo hiểm, cơ chế sàng lọc được thể hiện qua việc chỉ bảo hiểm một phần,
điều này cho thấy ngay cả đối với nhóm bất cẩn cũng phải có trách nhiệm một phần
của mình trong sự cố bồi thường có thể xảy ra. Ở thị trường chứng khoán, ngoại trừ
một số nhà đầu cơ, đa phần nhà đầu tư mong muốn mình sẽ đầu tư vào những công ty
có khả năng mang lại hiệu quả cao và bền vững. Vì vậy cơ chế sàng lọc đối với nhà
Nhóm 6
Chi Phí Giao Dịch & Khái Niệm Thông Tin Bất Cân Xứng Page 15
đầu tư là đầu tư vào các công ty có thông tin minh bạch, uy tín, làm ăn hiệu quả và có
tiềm năng phát triển cao.
2.4.3. Cơ chế giám sát
Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm mục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại. Trong thị
trường tài chính, người cho vay thường thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay sau
khi giải ngân, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay theo định
kỳ. Trong các hợp đồng tín dụng, luôn có điều khoản yêu cầu khách hàng vay cung
cấp đầy đủ và kịp thời các thông tín liên quan đến tình hình hoạt động, những thay đổi
tác động nhiều đến bên vay… Ngoài ra, bên cho vay còn sử dụng các hệ thống giám
sát khác như hệ thống thông tin tíndụng, thông tin trên thị trường chứng khoán, thông
tin từ các đối thủ cạnh tranh, các cơ quanquản lý....Trong hệ thống giám sát nêu trên,
đối với các tổ chức tín dụng, quan trọng nhất là hệ thốngthông tin tín dụng (hệ thống
này thường do ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng làm
thiết lập và tổ chức hoạt động). Hệ thống thông tin tín dụng làm nhiệm vụ thu thập tất
cả các thông tín liên quan đến hoạt động của tất cả cá đối tượng được cấp tín dụng và
sẽ cung cấp cho các thành viên trong hệ thống thông tin này hoặc cung cấp (bán) cho
những đối tượng khác có nhu cầu. Ngoài ra, ở các thị trường tài chính phát triển, còn
có một hệ thống giám sát khác rất hiệu quả đó là các tổ chức đánh giá, xếp loại độc
lập như S&P, Moody ... kết quả xếp loại của các tổ chức độc lập này có ảnh hưởng rất
lớn đến ví trị của một doanh nghiệp trên thị trường.
Trong thị trường chứng khoán, cơ chế giám sát bao gồm: giám sát trực tiếp và
giám sát gián tiếp:
o Giám sát trực tiếp: nhà đầu tư sẽ bỏ ra nguồn lực để đạt được kiểm soát thông
tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và sức lực, khả năng giám sát của nhà đầu tư
muốn giám sát công ty niêm yết sẽ bị hạn chế.
Nhóm 6
Chi Phí Giao Dịch & Khái Niệm Thông Tin Bất Cân Xứng Page 16
o Giám sát gián tiếp: thông qua các qui định của các nhà tổ chức thị trường
(UBCK, Sở GDCK), mặc nhiên các công ty niêm yết phải có trách nhiệm thông báo
trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhà đầu tư và nhà đầu tư cũng thông qua các quyền lợi đã
được qui định mà có thể tiếp cận giám sát gián tiếp công ty niêm yết.
Ngoài ra còn có giám sát thị trƣờng: căn cứ đánh giá của thị trường để biết
nhiều thông tin hơn về các công ty niêm yết sau khi thực hiện giao dịch.
Cơ chế giám sát được thực hiện rất chặt chẽ trên thị trường chứng khoán. Vì
nhà đầu tư không thể bỏ ra một số tiền mà không biết số tiền đó được sử dụng như thế
nào. Ngoài 3 cơ chế nêu trên, tâm lý ỷ lại còn được giảm thiểu bằng cơ chế khuyến
khích. Đây là một cơ chế rất hữu hiệu trên cơ sở chính sách cây gậy và củ cà rốt. Các
tổ chức tín dụng sẽ cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, phí, hạn mức
tín dụng, tài sản đảm bảo....cho những khách hàng có uy tín trong quan hệ, vay trả
sòng phẳng. Ngược lại, đối với các khách hàng không có uy tín trong quan hệ sẽ bị
hạn chế hạn mức tín dụng (thậm chí chấm dứt quan hệ tín dụng), phải chịu lãi suất cao
và những điều kiện khắt khe hơn về đảm bảo tiền vay./.
ĐƢỜNG DẪN NGUỒN VÀ TÀI LIỆU SƢU TẦM
Giáo trình “Các Nguyên Lý Tiền Tệ Ngân Hàng và Thị Trƣờng
Tài Chính” - TS.Trần Viết Hoàng
Chƣơng trình giảng dạy kinh tế Fulbright “Kinh tế học về Chi Phí
Giao Dịch” của Robert Cooter
Chƣơng trình giảng dạy kinh tế Fulbright “Thị Trƣờng, Định chế
và Chi Phí Giao Dịch” của P.K.Rao
Nhóm 6
Chi Phí Giao Dịch & Khái Niệm Thông Tin Bất Cân Xứng Page 17
Bảng phân công công việc nhóm 6
Thành viên thực hiện Công việc
1. Nguyễn Trọng Nghĩa K104050870
Nội dung phần vai trò, các yếu tố ảnh
hưởng, những biện pháp hạn chế CPGD
2. Dƣơng Thị Phƣơng K104050885
Nội dung phần các biện pháp hạn chế
Thông Tin Bất Cân Xứng( TTBCX)
3. Nguyễn Đức Thuận K104050907
Nội dung phần khái niệm, phân loại
CPGD
Trình bày bìa, trang trí file Word
4. Huỳnh Thị Cẩm Tú K104050924 Nội dung phần ảnh hưởng của TTBCX
5. Châu Thị Mai Trang K104051676
Nội dung phần giới thiệu, khái niệm
TTBCX
Trình bày và thiết kế Power Point
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CPGD&KN TTBCX_nhom 6_K10405B.pdf