Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý

Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước ta, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong suốt 76 năm qua xây dựng và trưởng thành Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng, giành độc lập tự do cho đất nước và nhân dân ta. Mục tiêu của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, sau 20 năm đã đưa đất nước ta thu được các thành tựu rất khả quan được thế giới công nhận. Trong tình hình thế giới biến đổi không lường, công cuộc đổi mới đất nước ta có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức. Để Đảng có vai trò, trình độ ngang tầm lãnh đạo đất nước trong xu thế phát triển của thế giới và khu vực, Đảng ta phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một trong những giải pháp quan trọng là thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình.

Qua quá trình hoạt động, Đảng ta đã khẳng định: tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thuộc tính bản chất của một chính đảng cách mạng, là công cụ sắc bén để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên của Đảng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, tự phê bình và phê bình luôn là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta. Tự phê bình, phê bình giúp cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình, qua đó tìm cách khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và cán bộ đảng viên. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Tiếp tục đưa tự phê bình, phê bình trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến các cơ sở thành nền nếp thường xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa chiếu lệ hình thức" [11, tr. 140].

Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng có vai trò quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình trong các cấp bộ Đảng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của thành phố. Việc thực hiện nghiêm túc, có chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình của Đảng trong đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ Hà Nội nói chung, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý nói riêng là biện pháp có ý nghĩa trực tiếp quyết định việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ quan trọng này.

Trong báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố nhận định:

Qua hai năm thực hiện Nghị quyết, đại đa số cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng đặc biệt có ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng Đảng hiện nay. Qua đợt sinh hoạt tự phê bình, phê bình đã có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa những tiêu cực về chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ đảng viên; sự thông cảm, tính đồng chí trong cơ quan và đoàn kết nội bộ được củng cố [36, tr. 3].

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện cuộc vận động còn bộc lộ những thiếu sót khuyết điểm như:

Chất lượng kiểm điểm tự phê bình và phê bình chưa cao, nhất là kiểm điểm phần tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống chưa sâu, chưa tự giác bộc lộ những tồn tại, yếu kém khuyết điểm. Hầu như không có trường hợp nào qua tự phê bình và phê bình chỉ ra được những tập thể và cá nhân sai phạm đến mức phải xem xét xử lý kỷ luật [36, tr. 3].

Trong báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6(2) khóa VIII trên lĩnh vực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố nêu:

Tình trạng lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực, trong sử dụng kinh phí, tài sản công trong sinh hoạt đang làm tha hóa một bộ phận cán bộ, làm suy yếu bộ máy lãnh đạo, tổn thất đến lợi ích kinh tế, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm nản lòng các nhà đầu tư và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng [39, tr. 7].

Nguyên nhân của những thiếu sót, khuyết điểm trên đây được Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố chỉ ra khá rõ, trên nhiều mặt, nhưng đáng chú ý nhận định sau:

Tính tự giác, gương mẫu, dũng cảm thành khẩn của một số ít đồng chí cán bộ chủ chốt chưa cao; tinh thần đấu tranh, xây dựng của đội ngũ cán bộ đồng cấp, của đảng viên thiếu mạnh dạn, thẳng thắn, còn né tránh. Công tác quản lý cán bộ lâu nay thiếu chặt chẽ, cấp ủy nắm cán bộ chưa chắc nên chưa có gợi ý, yêu cầu kiểm điểm cụ thể và sâu sắc, tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền và sơ hở trong cơ chế, chính sách để tham ô, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Tính chiến đấu, vai trò lãnh đạo ở một số tổ chức đảng yếu, thậm chí có nơi bị tê liệt. Đấu tranh tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của nhiều tổ chức đảng, nhiều cán bộ, đảng viên còn yếu nên ít phát hiện được tham nhũng, tiêu cực ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình, cá biệt có nơi còn vi phạm nguyên tắc của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, dẫn đến nội bộ mất đoàn kết [39, tr. 7].

Vì vậy tiếp tục nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng đấu tranh tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý là một đòi hỏi bức thiết của công tác xây dựng Đảng bộ Hà Nội hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Những quan điểm, chủ trương lớn và biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung, trong đội ngũ cán bộ của Đảng nói riêng được thể hiện khá rõ trong Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trong "Báo cáo tổng kết thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong Đảng" trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, và nhất là trong "Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII" của Thành ủy Hà Nội ngày 13 tháng 7 năm 2001, Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, trên lĩnh vực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu của nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội. Những văn kiện trên là định hướng và cơ sở quan trọng để nghiên cứu đề tài.

Ngoài những văn kiện trên, những năm gần đây cũng đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài viết đề cập đến những mặt, những nội dung của việc nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong các cấp bộ đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng như: Trần Văn Bộ với: "Nâng cao chất lượng tự phê bình, phê bình ở tổ chức cơ sở đảng trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ, (1999), Đức Lượng với: "Thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng" (Báo Nhân dân, ngày 20-1-1999). Tiến Hải với "Tự phê bình và phê bình trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng" Tạp chí Cộng sản, số 13 (7-1999), Nguyễn Văn Biều với "Chất lượng tự phê bình và phê bình của cán bộ lãnh đạo" (Báo Nhân dân, ngày 21-6-1996), Bùi Đức Lại: "Vì sao tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện có hiệu quả", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8, năm 2005; Long Thanh Hùng: "Để tự phê bình và phê bình có hiệu quả", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10, năm 2005.

 

doc119 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước ta, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong suốt 76 năm qua xây dựng và trưởng thành Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng, giành độc lập tự do cho đất nước và nhân dân ta. Mục tiêu của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, sau 20 năm đã đưa đất nước ta thu được các thành tựu rất khả quan được thế giới công nhận. Trong tình hình thế giới biến đổi không lường, công cuộc đổi mới đất nước ta có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức. Để Đảng có vai trò, trình độ ngang tầm lãnh đạo đất nước trong xu thế phát triển của thế giới và khu vực, Đảng ta phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một trong những giải pháp quan trọng là thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình. Qua quá trình hoạt động, Đảng ta đã khẳng định: tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thuộc tính bản chất của một chính đảng cách mạng, là công cụ sắc bén để giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên của Đảng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, tự phê bình và phê bình luôn là việc làm không thể thiếu trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta. Tự phê bình, phê bình giúp cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình, qua đó tìm cách khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và cán bộ đảng viên. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Tiếp tục đưa tự phê bình, phê bình trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến các cơ sở thành nền nếp thường xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa chiếu lệ hình thức" [11, tr. 140]. Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng có vai trò quyết định chất lượng tự phê bình và phê bình trong các cấp bộ Đảng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của thành phố. Việc thực hiện nghiêm túc, có chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình của Đảng trong đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng bộ Hà Nội nói chung, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý nói riêng là biện pháp có ý nghĩa trực tiếp quyết định việc nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, tác phong và năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ quan trọng này. Trong báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố nhận định: Qua hai năm thực hiện Nghị quyết, đại đa số cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng đặc biệt có ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng Đảng hiện nay... Qua đợt sinh hoạt tự phê bình, phê bình đã có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh, phòng ngừa những tiêu cực về chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ đảng viên; sự thông cảm, tính đồng chí trong cơ quan và đoàn kết nội bộ được củng cố [36, tr. 3]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện cuộc vận động còn bộc lộ những thiếu sót khuyết điểm như: Chất lượng kiểm điểm tự phê bình và phê bình chưa cao, nhất là kiểm điểm phần tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống chưa sâu, chưa tự giác bộc lộ những tồn tại, yếu kém khuyết điểm... Hầu như không có trường hợp nào qua tự phê bình và phê bình chỉ ra được những tập thể và cá nhân sai phạm đến mức phải xem xét xử lý kỷ luật [36, tr. 3]. Trong báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6(2) khóa VIII trên lĩnh vực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố nêu: Tình trạng lãng phí trong việc sử dụng các nguồn lực, trong sử dụng kinh phí, tài sản công trong sinh hoạt đang làm tha hóa một bộ phận cán bộ, làm suy yếu bộ máy lãnh đạo, tổn thất đến lợi ích kinh tế, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm nản lòng các nhà đầu tư và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng tới niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng [39, tr. 7]. Nguyên nhân của những thiếu sót, khuyết điểm trên đây được Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố chỉ ra khá rõ, trên nhiều mặt, nhưng đáng chú ý nhận định sau: Tính tự giác, gương mẫu, dũng cảm thành khẩn của một số ít đồng chí cán bộ chủ chốt chưa cao; tinh thần đấu tranh, xây dựng của đội ngũ cán bộ đồng cấp, của đảng viên thiếu mạnh dạn, thẳng thắn, còn né tránh... Công tác quản lý cán bộ lâu nay thiếu chặt chẽ, cấp ủy nắm cán bộ chưa chắc nên chưa có gợi ý, yêu cầu kiểm điểm cụ thể và sâu sắc, tinh thần trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền và sơ hở trong cơ chế, chính sách để tham ô, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân. Tính chiến đấu, vai trò lãnh đạo ở một số tổ chức đảng yếu, thậm chí có nơi bị tê liệt. Đấu tranh tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của nhiều tổ chức đảng, nhiều cán bộ, đảng viên còn yếu nên ít phát hiện được tham nhũng, tiêu cực ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình, cá biệt có nơi còn vi phạm nguyên tắc của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, dẫn đến nội bộ mất đoàn kết [39, tr. 7]. Vì vậy tiếp tục nghiên cứu, tìm giải pháp nâng cao chất lượng đấu tranh tự phê bình và phê bình trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý là một đòi hỏi bức thiết của công tác xây dựng Đảng bộ Hà Nội hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những quan điểm, chủ trương lớn và biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung, trong đội ngũ cán bộ của Đảng nói riêng được thể hiện khá rõ trong Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trong "Báo cáo tổng kết thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong Đảng" trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, và nhất là trong "Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII" của Thành ủy Hà Nội ngày 13 tháng 7 năm 2001, Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, trên lĩnh vực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu của nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội. Những văn kiện trên là định hướng và cơ sở quan trọng để nghiên cứu đề tài. Ngoài những văn kiện trên, những năm gần đây cũng đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài viết đề cập đến những mặt, những nội dung của việc nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong các cấp bộ đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng như: Trần Văn Bộ với: "Nâng cao chất lượng tự phê bình, phê bình ở tổ chức cơ sở đảng trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ, (1999), Đức Lượng với: "Thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng" (Báo Nhân dân, ngày 20-1-1999). Tiến Hải với "Tự phê bình và phê bình trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng" Tạp chí Cộng sản, số 13 (7-1999), Nguyễn Văn Biều với "Chất lượng tự phê bình và phê bình của cán bộ lãnh đạo" (Báo Nhân dân, ngày 21-6-1996), Bùi Đức Lại: "Vì sao tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện có hiệu quả", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8, năm 2005; Long Thanh Hùng: "Để tự phê bình và phê bình có hiệu quả", Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10, năm 2005. Đề tài cấp bộ năm 2004-2005 "Chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ lãnh đạo cấp quận ở thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay", cơ quan chủ trì Viện Xây dựng Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Chủ nhiệm đề tài: Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Biều. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý, nên tôi chọn nội dung này để nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn về chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý hiện nay, đề xuất phương hướng, quan điểm và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý hiện nay. Nhiệm vụ - Dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta, Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội nêu ra các quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay. - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý từ năm 1999 đến nay, xác định rõ nguyên nhân của những thực trạng trên. Qua đó nêu lên những kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất những phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý (căn cứ vào Quyết định số 135, 634-QĐ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ XII, XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội về phân công, phân cấp quản lý cán bộ). - Phạm vi nghiên cứu Đảng bộ thành phố Hà Nội thời gian từ năm 1999 đến nay - từ khi có Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. 5. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đại hội Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Đảng bộ Hà Nội, các luật, các văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan đến chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Luận văn được nghiện cứu theo phương pháp: Điều tra, khảo sát thực tế, nghe báo cáo, tiếp xúc cá nhân. Sử dụng phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ thêm quan niệm về chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý hiện nay. - Nêu lên một số kinh nghiệm quan trọng và đề xuất những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cáo chất lượng tự phê bình và phê bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay. - Kết quả nghiên cứu luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ tích cực công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ thành phố Hà Nội hiện nay. - Làm tư liệu tham khảo trong việc giảng dạy xây dựng Đảng ở các trung tâm chính trị quận, huyện và trường đào tạo cán bộ thành phố. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 CHẤT LƯỢNG TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN THÀNH ỦY HÀ NỘI QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - QUAN NIỆM, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ 1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT THUỘC DIỆN THÀNH ỦY QUẢN LÝ - QUAN NIỆM, VAI TRÒ 1.1.1. Quan niệm về đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm về cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đội ngũ cán bộ được thể hiện các nội dung sau: Cán bộ: Cán bộ là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, làm việc trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị; là người giữ chức vụ trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Cán bộ lãnh đạo: Chỉ người đứng đầu của một tổ chức, một phong trào; là người làm thức tỉnh hành vi của người khác. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt: Là người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối chính toàn bộ hoạt động của một tổ chức. Đội ngũ cán bộ: Bao gồm toàn bộ cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ làm việc trong các tổ chức, cơ quan của hệ thống chính trị. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt: Bao gồm toàn bộ người đứng đầu, quan trọng nhất của các cơ quan, đơn vị và các tổ chức chính trị - xã hội. Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ của cả nước. Về hành chính, Hà Nội là thành phố trực thuộc Trung ương có ba cấp: cấp thành phố, cấp quận, huyện và cấp phường, xã. Thành phố Hà Nội - Thủ đô của Việt Nam, là trái tim của cả nước, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với cả nước. Hệ thống chính trị của thành phố gồm: Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân thành phố; Đảng bộ thành phố; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở thành phố. Hệ thống chính trị cấp thành phố là một cơ cấu tổ chức mà mỗi cơ quan của hệ thống đó có mối liên hệ bên trong và bên ngoài chặt chẽ với nhau để cấu thành cả hệ thống. Những cán bộ hoạt động trong hệ thống chính trị thành phố hợp thành đội ngũ cán bộ cấp thành phố. - Đội ngũ cán bộ cấp thành phố Khái niệm đội ngũ cán bộ cấp thành phố dựa vào pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 của Ban Thường vụ Quốc hội dùng để chỉ tất cả những cán bộ công chức "là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước", bao gồm: 1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo từng thời kỳ các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; 2. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; 3. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng; 4. Thẩm phán Tòa án nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;... tham gia công tác trực tiếp và thường xuyên trong các cơ quan của hệ thống chính trị cấp thành phố hợp thành "đội ngũ cán bộ cấp thành phố". Như vậy, tất cả các công chức, viên chức được bổ nhiệm, tuyển dụng theo quy định của pháp luật; tất cả những cán bộ được bầu cử vào các cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cấp thành phố để giữ một chức trách, nhiệm vụ nào đó trong các cơ quan nói trên đều thuộc đội ngũ cán bộ cấp thành phố. Tóm lại, đội ngũ cán bộ cấp thành phố được tập hợp, tổ chức thành một lực lượng đông đảo thực hiện nhiệm vụ được giao trong một tổ chức của hệ thống chính trị cấp thành phố với số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý. - Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý Theo Điều 4 của Hiến pháp nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Như vậy, Thành ủy Hà Nội là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị thành phố. Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Thành ủy lãnh đạo mọi mặt hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị theo nguyên tắc: lãnh đạo tập thể, phân công cá nhân phụ trách. Nghĩa là, toàn bộ các hoạt động ở thành phố đặt dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, nhưng lãnh đạo bằng việc định ra chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ công tác của hệ thống chính trị; bằng công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác kiểm tra của Đảng. Trên cơ sở Thành ủy ra quyết định lãnh đạo, phân công cho cá nhân các đồng chí Thành ủy viên tổ chức thực hiện quyết định lãnh đạo của Thành ủy. Trên cơ sở nguyên tắc lãnh đạo này, hầu hết các đồng chí Thành ủy viên đều được phân công hoặc giới thiệu ứng cử vào các chức vụ chủ chốt, trọng yếu trong các cơ quan nhà nước, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội ở thành phố theo luật định. Những cán bộ này, trên cương vị Thành ủy viên, họ là thành viên ban lãnh đạo của đảng bộ, thực hiện sự lãnh đạo chính trị ở thành phố. Nhưng trên cương vị người quản lý hay phụ trách một cơ quan, đoàn thể quần chúng, họ phải hoạt động tuân theo pháp luật, điều lệ của tổ chức quy định rõ chức trách, nhiệm vụ được giao. Khi nói tới cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý là nói trước hết tới các đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt hoạt động trong hệ thống chính trị ở thành phố. Những cán bộ này thường là người đứng đầu, hoặc giữ vị trí chủ chốt trong các tổ chức, các cơ quan, có vai trò là người định hướng, chi phối và quyết định sự phát triển của tổ chức, cũng như khả năng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của tổ chức đó. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý theo Quyết định 634-QĐ/TU, ngày 05/11/2001 của Ban Thường vụ Thành ủy khóa XIII bao gồm chức danh sau: Ủy viên thường vụ, Trưởng ban, Phó trưởng ban Đảng, Ủy viên Ủy ban kiểm tra Thành ủy; Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân hành phố; Chủ tịch, Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, cấp trưởng, cấp phó các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố; Cấp trưởng, cấp phó các tổ chức: Liên minh hợp tác xã thành phố, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội, Hội luật gia Hà Nội, Hội nhà báo Hà Nội, Hội liên hiệp các hội khoa học Hà Nội, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hà Nội; Giám đốc, phó giám đốc các sở, ban, ngành Thành phố và tương đương; Trưởng ban, phó trưởng ban Hội đồng nhân dân thành phố; Bí thư, phó bí thư, Ủy viên thường vụ quận, huyện ủy và đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân quận huyện; Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các trường trực thuộc thành phố (Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, Cao đẳng sư phạm Hà Nội, Cao đẳng nghệ thuật Hà Nội); Bí thư, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc tổng công ty nhà nước và tương đương trực thuộc thành phố. Hiện nay số lượng cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý gần 700 đồng chí. 1.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý Theo quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cán bộ giữ vai trò quan trọng hàng đầu là một trong những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Từ rất sớm, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, để thực hiện một lý tưởng cần phải có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong quá trình hoạt động lý luận và chỉ đạo thực tiễn việc thành lập các chính đảng của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen ý thức rất rõ vai trò các lãnh tụ cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động mỗi nước. Các ông luôn coi họ là những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào vô sản. Họ vừa là người tuyên truyền tư tưởng cộng sản trong quần chúng, vừa là người tổ chức các phong trào đấu tranh cách mạng trên thực tiễn. Phát triển sáng tạo những tư tưởng của Mác trong hoàn cảnh lịch sử mới, Lênin khẳng định: Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào. Đặc biệt trong giai đoạn Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội - Một sự nghiệp mới mẻ, rộng lớn, toàn diện và sâu sắc chưa có tiền lệ trong lịch sử - Đảng phải đào tạo ra những cán bộ lãnh đạo chính trị tài giỏi, những nhà chính trị chuyên nghiệp thực sự của mình không thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví cán bộ như dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt, thì động cơ dù tốt, toàn bộ máy cũng bị tê liệt. Người khẳng định, vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu và rất cần kíp; cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vai trò của người cán bộ thể hiện qua bốn mối quan hệ: Một là, cán bộ với đường lối chính sách của Đảng; hai là, cán bộ với tổ chức; ba là, cán bộ với công việc; bốn là, cán bộ với quần chúng. Người cán bộ cách mạng không chỉ là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, với Nhà nước, mà cán bộ vừa là người lãnh đạo, người tổ chức, vừa phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong 76 năm cầm quyền Đảng ta luôn coi trọng vai trò của cán bộ và công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo các cấp. Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng chỉ rõ: tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra rất nhiều yêu cầu cho công tác cán bộ, vì vậy toàn Đảng phải chăm lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ. Nhìn tổng quát, vai trò đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy Hà Nội quản lý gắn liền với vai trò hết sức quan trọng của hệ thống chính trị của thành phố, thể hiện trên những mặt sau: Một là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hóa sự lãnh đạo, của Ban Chấp hành Trung ương, của Thành ủy, đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn thành phố. Là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức quần chúng thực hiện sáng tạo các nghị quyết của Trung ương và Thành ủy, chủ trương biện pháp của chính quyền thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý tạo nên những thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị, góp phần rất quan trọng vào sự phát triển toàn diện ở thành phố. Vai trò này không những thể hiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị và chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý được giao, mà trong thực tế cũng cho thấy, mọi chủ trương nghị quyết của Trung ương Đảng, Thành ủy, các quyết định quản lý của Chính phủ, chính quyền, cuối cùng đều do đội ngũ này cụ thể hóa và tổ chức thực hiện. Nhiệm vụ chính trị quan trọng của hệ thống chính trị thành phố Hà Nội hiện nay là: coi trọng phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của Trung ương cũng như của Hà Nội đến mọi người dân và tổ chức thực hiện tốt trên địa bàn thành phố, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ trên địa bàn thành phố. Căn cứ vào các nghị quyết của Đảng (từ nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc, đến Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ thành phố), căn cứ vào luật pháp, các chính sách và văn bản chỉ đạo của Nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, bộ, ngành và Ủy ban nhân dân thành phố); căn cứ vào tình hình cụ thể và những vấn đề đặt ra trên địa bàn thành phố, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý xây dựng các chủ trương, nghị quyết, kế hoạch và biện pháp công tác phù hợp. Sau khi đã có quyết định, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt sẽ tùy theo chức trách được phân công, tổ chức thực hiện thắng lợi các quyết định đó. Hai là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh và phong trào cách mạng của quần chúng trên địa bàn thành phố. Thực tiễn cho thấy, sự mạnh, yếu của hệ thống chính trị và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở đây. Đối với các tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, họ là nòng cốt, là trung tâm đoàn kết, là linh hồn của các tập thể trong việc tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng. Họ tác động quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, năng lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực lượng vũ trang, hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương. Hệ thống chính trị của thành phố hoạt động tốt hay không tốt, có hoàn thành được nhiệm vụ của mình hay không trước hết phụ thuộc vào các thành viên chủ chốt cấu thành hệ thống chính trị đó. Các thành viên chủ chốt ấy chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Thành ủy quản lý. Vì vậy cần phải thường xuyên chăm lo xây dựng, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo mới có thể tăng cường khả năng lãnh đạo, quản lý của cấp ủy và chính quyền, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn thành phố trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta nói chung, ở Thủ đô Hà Nội nói riêng là sự nghiệp cách mạng vĩ đại, vô cùng khó khăn gian khổ, do quần chúng thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong. Sự nghiệp ấy không thể thực hiện tốt được nếu quần chúng không cảm thấy là sự nghiệp của chính họ, nếu quần chúng không nỗ lực sáng tạo thực hiện nó. Nhưng để quần chúng giác ngộ thực hiện, để tổ chức và lôi cuốn quầ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van1.doc
  • docBia - ThS.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan