Herpes sinh dục là tình trạng nhiễm virus mạn tính, dai dẵng. Có 2 types
virus herpes(HSV): HSV-1 và HSV-2. Hầu hết các trường hợp herpes sinh dục tái
phát (recurrent) gây ra do HSV-2 mặc dù HSV-1 thì thường gặp trong đợt đầu tiên
của herpes sinh dục. Có hơn 50 triệu người ở Hoa kỳ bị nhiễm HSV sinh dục.
Phần lớn những người bị nhiễm HSV-2 không được chẩn đoán herpes sinh
dục. Đa số họ bị nhiễm ở mức độ nhẹ hoặc không đ ược phát hiện ra, nhưng virus
thì vẫn phát triển tiếp tục trong đường sinh dục. Đa số trường hợp nhiễm herpes
sinh dục đã lây truyền sang người khác mà họ không biết họ bị nhiễm hoặc không
hề có triệu chứng gì xảy ra.
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Cập nhật về nhiễm herpes sinh dục (genital hsv infections) -kỳ 1+4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CẬP NHẬT VỀ NHIỄM HERPES SINH DỤC
(GENITAL HSV INFECTIONS)
(Kỳ 1)
oooOOOooo
Herpes sinh dục là tình trạng nhiễm virus mạn tính, dai dẵng. Có 2 types
virus herpes(HSV): HSV-1 và HSV-2. Hầu hết các trường hợp herpes sinh dục tái
phát (recurrent) gây ra do HSV-2 mặc dù HSV-1 thì thường gặp trong đợt đầu tiên
của herpes sinh dục. Có hơn 50 triệu người ở Hoa kỳ bị nhiễm HSV sinh dục.
Phần lớn những người bị nhiễm HSV-2 không được chẩn đoán herpes sinh
dục. Đa số họ bị nhiễm ở mức độ nhẹ hoặc không được phát hiện ra, nhưng virus
thì vẫn phát triển tiếp tục trong đường sinh dục. Đa số trường hợp nhiễm herpes
sinh dục đã lây truyền sang người khác mà họ không biết họ bị nhiễm hoặc không
hề có triệu chứng gì xảy ra.
Chẩn đoán Nhiễm HSV
Chẩn đoán lâm sàng herpes sinh dục thường không nhạy cảm và không đặc
hiệu. Mụn nước mọc thành chùm đau rát hoặc các tổn thương loét cổ điển thường
không có trong hầu hết người bị nhiễm. 50% trường hợp trong đợt đầu tiên của
herpes sinh dục gây ra do HSV-1 , nhưng các trường hợp tái phát và tồn tại dưới
lâm sàng thì tần suất nhiễm HSV-1 thấp hơn nhiễm HSV-2. Vì thế, không thể biết
được herpes sinh dục gây ra do HSV-1 hay HSV-2 trong tiên lượng và tư vấn
(counseling). Bởi vậy, chẩn đoán lâm sàng herpes sinh dục cần phải thực hiện
bằng các xét nghiệm , cả hai thử nghiệm virus học và huyết thanh đặc hiệu HSV
phải cùng được thực hiện trên lâm sàng ở các bệnh nhân bị STDs hoặc có nguy cơ
mắc STDs.
Các Thử nghiệm Virus học
Cố định HSV trong cấy tế bào là thử nghiệm virus học cho các bệnh nhân
mà họ cần điều trị loét sinh dục hoặc có các tổn thương da-niêm mạc. Tuy nhiên,
cấy tế bào có độ nhạy thấp, đặc biệt trong các tổn thương tái phát, và giảm nhanh
trên các tổn thương khi bắt đầu điều trị. Thử nghiệm PCR tìm HSV-ARN có độ
nhạy cao và thường dùng thay thế cho cấy virus, tuy nhiên, thử nghiệm PCR chưa
được FDA công nhận là thử nghiệm cho tất cả các chủng gây bệnh đường sinh
dục. PCR là thử nghiệm được lựa chọn để phát hiện HSV trong dịch tủy sống để
chẩn đoán nhiễm HSV ở hệ thống thần kinh trung ương (CNS: central nervous
system). Cấy cố định virus được thực hiện để xác định HSV-1 hoặc HSV-2 là
nguyên nhân gây nhiễm. Rất ít HSV được phát hiện (trong cấy hoặc PCR) trong
nhiễm HSV, nhưng virus thì vẩn tiếp tục phát triển. Dùng thử nghiệm tế bào học
(cytology) để phát hiện các thay đổi về mặt tế bào trong nhiễm HSV thì không
nhạy cảm và không đặc hiệu trong chẩn đoán, cả trong các tổn thương sinh dục và
Pap smears cổ tử cung.
Các thử nghiệm huyết thanh đặc hiệu
Cả hai loại kháng thể đặc hiệu và không đặc hiệu của HSV xuất hiện ngay
trong những tuần đầu sau khi nhiễm và tồn tại kéo dài một thời gian không xác
định. Thử nghiệm huyết thanh HSV đặc hiệu được thực hiện để phát hiện chính
xác glycoprotein G2 (HSV-2) và glycoprotein G1 (HSV-1).
FDA công nhận thử nghiệm tìm glycoprotein G chuyên biệt bao gồm: thử
nghiệm HerpeSelect -1 ELISA IgG hoặc HerpeSelect -2 ELISA IgG và
HerpeSelect 1,2 IgG . Hai thử nghiệm khác, Biokit HSV-2 và SureVue HSV-2 là
những thử nghiệm cung cấp kết quả kháng thể HSV-2 bằng máu mao mạch hoặc
từ huyết thanh. Độ nhạy của các thử nghiệm glycoprotein G chuyên biệt khi phát
hiện kháng thể HSV-2 thay đổi từ 80-98%, và kết quả âm tính giả cũng có một tần
suất cao trong nhiễm HSV giai đoạn sớm. Độ đặc hiệu của các thử nghiệm này ≥
96%. Kết quả dương tính giả cũng có thể xảy ra, đặc biệt ở các bệnh nhân có khả
năng nhiễm HSV thấp. Lập lại các thử nghiệm để xác định có thể được chỉ định,
đặc biệt nếu có bằng chứng mắc phải herpes sinh dục.
Bởi vì gần đây tất cả các trường hợp nhiễm HSV-2 mắc phải là qua quan hệ
tình dục, sự hiện diện của kháng thể HSV-2 chuyên biệt có liên quan đến viêm
nhiễm đường sinh dục-hậu môn và việc giáo dục, tư vấn dành riêng cho người
nhiễm herpes sinh dục cần được thực hiện. Sự hiện diện của chỉ một kháng thể
HSV-1 thường rất khó giải thích, đa số những người mang kháng thể HSV-1 có
nhiễm HSV mắc phải qua đường miệng từ lúc nhỏ, mà họ lại không có triệu
chứng, tuy nhiên, nhiễm HSV-1 mắc phải qua đường tình dục ngày càng gia tăng,
và nhiễm HSV-1 ở đường sinh dục cũng không có triệu chứng. Người có huyết
thanh HSV-1 dương tính mà không có triệu chứng thì cũng không thể xác định
được họ có viêm hậu môn-sinh dục từ các viêm nhiễm đường môi-miệng hoặc trên
da. Những người nhiễm HSV-1, nếu lưu ý đến vị trí, vẫn duy trì các nguy cơ
nhiễm HSV-2 mắc phải.
Thử nghiệm huyết thanh HSV chuyên biệt có thể dùng trong:
(1) Có các triệu chứng ở đường sinh dục tái phát hoặc có triệu chứng không
đặc hiệu với thử nghiệm cấy HSV âm tính,
(2) Chẩn đoán lâm sàng herpes sinh dục nhưng không có thử nghiệm xác
định,
(3) Bạn tình của người nhiễm herpes sinh dục.
Một số chuyên gia tin rằng thử nghiệm huyết thanh HSV có thể dùng để
lượng giá tình trạng STDs cho những người có nhiều bạn tình (multiple sex
partners), người nhiễm HIV, đồng tính luyến ái nam (MSM: men who have sex
with men). Tầm soát HSV-1, HSV-2 trong quần thể dân cư không có chỉ định.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cap_nhat_ve_nhiem_herpes_sinh_duc_doc_1_1848.pdf
- cap_nhat_ve_nhiem_herpes_sinh_duc_doc_4_8206.pdf