Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát là xây dựng nền tư
pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Cải cách tư pháp và một số kinh nghiệm của nước ngoài về thi hành án phạt tù, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cải cách tư pháp và một số kinh nghiệm của nước
ngoài về thi hành án phạt tù
Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát là xây dựng nền tư
pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
*
1. Đặt vấn đề
1.1. Ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát là xây dựng nền
tư pháp* “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Cải cách tư pháp ở nước ta được tiến hành trong xu thế hội nhập quốc tế và với bối
cảnh địa chính trị thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc. Do đó, một trong những quan
điểm chỉ đạo quan trọng của quá trình cải cách tư pháp là cải cách tư pháp phải kế
thừa truyền thống pháp lý dân tộc, kế thừa những thành tựu đã đạt được của nền tư
pháp XHCN Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài
phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế, đáp ứng xu
thế phát triển của xã hội trong tương lai.
1.2. Hình phạt tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại
trại giam trong một thời hạn nhất định. áp dụng hình phạt tù không chỉ nhằm trực
tiếp trừng trị, giáo dục người phạm tội mà còn nhằm giáo dục người khác về ý
thức tôn trọng pháp luật và tham gia vào quá trình phòng ngừa, đấu tranh chống
mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của thi hành án (THA) phạt tù là tính cưỡng chế nghiêm khắc.
Người phải THA phạt tù bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi trường sống bình thường
và phải chịu sự quản lý, giáo dục trong môi trường tách biệt với những quy định
chặt chẽ và nghiêm ngặt.
THA phạt tù là một vấn đề quan trọng thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và nhà nước ta đối với công tác cải tạo, giáo dục những người lầm lỗi.
Hoạt động THA phạt tù của chúng ta một mặt nhằm đề cao tính nghiêm minh của
pháp luật, đề cao pháp chế XHCN, mặt khác, đó là quá trình giáo dục, cải tạo
phạm nhân để giúp họ nhận thức một cách sâu sắc sai lầm của mình và từ đó, họ tự
giác cải tạo, sửa chữa lỗi lầm, xây dựng ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc
của đời sống xã hội, ngăn ngừa hành vi tái phạm tội và hơn nữa là giúp họ sớm
hoàn lương để trở về với cộng đồng xã hội. Việc áp dụng THA phạt tù ở nước ta
phải luôn quán triệt phương châm “kết hợp giữa trừng phạt và cải tạo”, trong đó
đặt công tác giáo dục, cải tạo con người lên hàng đầu nhằm giúp người THA phạt
tù chuyển hóa về mặt tư tưởng, tích cực sửa chữa thói xấu trong ứng xử trái với
chuẩn mực của xã hội để tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống xã hội.
THA phạt tù không chỉ là một hoạt động trực tiếp tác động đến người phải THA
mà còn tác động đến gia đình của người phạm tội, đến các thành viên khác trong
xã hội. Do đó, nghiên cứu việc tổ chức THA phạt tù có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
THA nói chung và THA phạt tù nói riêng là một hoạt động trong lĩnh vực công tác
tư pháp. Do đó, quá trình tổ chức THA phạt tù không tách khỏi quá trình cải cách
tư pháp của nước ta hiện nay.
1.3. THA phạt tù là một biện pháp cưỡng chế đối với người phạm tội được rất
nhiều nước trên thế giới áp dụng. Xuất phát từ điều kiện cụ thể về kinh tế, văn hoá,
xã hội của mỗi nước mà đã có sự khác nhau trong quá trình vận dụng và có nhiều
kinh nghiệm tốt trong quá trình tổ chức thực hiện THA phạt tù. Vì vậy, việc
nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những kinh nghiệm hay của các nước
trong lĩnh vực hoạt động này đối với chúng ta là hết sức cần thiết và đó cũng là
yêu cầu khách quan của quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay bởi, nó
không chỉ nhằm nâng cao tính hiệu quả của công tác THA phạt tù mà còn nhằm
góp phần hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
phát triển đất nước trong bối cảnh chính trị mới. Tuy nhiên, như đã trình bày, do
điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và tình hình hoạt động của tội phạm ở nước ta
hiện nay khác nhiều so với các nước nên chúng ta cần nghiên cứu kỹ và tiếp thu
một cách có chọn lọc để vận dụng nhằm nâng cao hiệu quả của công tác THA phạt
tù trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
2. Một số kinh nghiệm của nước ngoài
Qua nghiên cứu bước đầu việc THA phạt tù của một số nước, chúng tôi thấy nước
ta cần nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm của các nước về một số vấn đề sau:
2.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về THA nói chung và THA phạt
tù nói riêng
Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng vì nó tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho quá
trình tổ chức THA và trực tiếp tác động đến hiệu quả thực tế của hoạt động THA.
Vì vậy, vấn đề này được nhiều nước rất quan tâm và có thể nói, hệ thống pháp luật
THA nói chung và THA phạt tù nói riêng của nhiều nước được xây dựng tương
đối hoàn chỉnh như: Luật Quản lý trại giam của Trung Quốc, Bộ luật THA hình sự
của Ba Lan, Luật về chấp hành hình phạt tước tự do của Tiệp Khắc (cũ), Bộ luật
cải tạo lao động của Mông Cổ, Luật về thi hành hình phạt của Tây Đức (cũ) …
Chưa dừng lại ở đó, hiện nay các nước đang tiếp tục nghiên cứu để xây dựng hệ
thống quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh mọi quan hệ xã hội nảy sinh trong quá
trình hoạt động THA với xu thế khá rõ rệt là bảo đảm tính cụ thể và đồng bộ của
hoạt động này như: Luật thi hành hình phạt tước tự do và hoàn trả người phạm tội
đã chấp hành hình phạt về với đời sống xã hội (Cộng hoà dân chủ Đức cũ); Bộ luật
lao động cải tạo (Cộng hoà liên bang Nga); Luật cấm nhân viên trại giam tổ chức
đình công và tham gia bãi công, Luật về xử lý những trường hợp tái phạm hình sự
(Cộng hoà Pháp); Luật cải tạo tội phạm, Luật giám sát quản chế những người
phạm tội được miễn chấp hành hình phạt có giám sát, Luật về các cơ sở cải tạo tội
phạm, Luật cán bộ quản chế tình nguyện, Luật ân xá (Nhật Bản).
Thực trạng pháp luật về THA nói chung và THA phạt tù nói riêng của nước ta
hiện nay còn nhiều bất cập như thiếu đồng bộ về hệ thống quy phạm, quy định của
pháp luật không theo kịp với tình hình thực tiễn của đời sống xã hội, văn bản pháp
luật có hiệu lực pháp lý thấp. Chính vì vậy, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
của Quốc hội khoá XI (2002-2007) đã quan tâm thích đáng đến vấn đề này. Hiện
nay, Dự án Bộ luật THA đang được xây dựng và đã được Quốc hội thảo luận tại
kỳ họp thứ tám với rất nhiều ý kiến khác nhau. Do đó, việc nghiên cứu, tiếp thu
kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về THA nói chung và THA phạt tù nói riêng là cần thiết nhằm sớm hoàn thiện một
cách cơ bản hệ thống pháp luật về THA nói chung và THA phạt tù nói riêng, tạo
sự đồng bộ về mặt pháp lý, khắc phục có hiệu quả những yếu kém, bất cập hiện
nay của chúng ta trong lĩnh vực công tác này.
2.2. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
THA phạt tù
Hệ thống cơ quản lý nhà nước về THA phạt tù có vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm tính hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội - một vấn đề
có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Trên thực tế, các nước đã dành sự quan tâm thích đáng cho việc xây dựng, hoàn
thiện đồng bộ hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về THA phạt tù. Tuy nhiên, xuất
phát từ điều kiện chính trị, xã hội và mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của các
nước có sự khác nhau nên hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về THA nói
chung và THA phạt tù nói riêng cũng có sự khác nhau nhất định. Nhìn chung, hiện
nay các nước đều tổ chức bộ máy cơ quan THA phạt tù thuộc hệ thống tổ chức bộ
máy công, do nhà nước đảm nhiệm. Hệ thống các cơ quan THA phạt tù ở các nước
thuộc nhiều bộ khác nhau của chính phủ như Bộ Tư pháp (Nhật Bản, Thuỵ Điển,
Bỉ, Italia, Pháp, Nhật Bản, Canada…), Bộ Nội vụ (Anh).
Ở nước ta hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước về THA phạt tù do Bộ Công an đảm
nhiệm. Trong Dự thảo Bộ luật THA, cơ quan THA phạt tù được thiết kế theo
hướng tập trung cơ quan quản lý nhà nước về THA (THA phạt tù và THA dân sự)
về một đầu mối do Bộ Tư pháp quản lý.
Như trên đã trình bày, quản lý nhà nước về THA phạt tù của nhiều nước do Bộ Tư
pháp đảm nhiệm. Song, ở đây vấn đề cần được nhìn nhận cụ thể hơn là chức năng,
nhiệm vụ (quyền năng pháp lý) của Bộ Tư pháp ở các nước đó không đồng nhất
với quyền năng pháp lý của Bộ Tư pháp nước ta hiện nay. Như vậy, nếu vận dụng
kinh nghiệm của những nước đó mà giao cơ quan quản lý nhà nước về THA phạt
tù thuộc Bộ Tư pháp thì phải xác định lại chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp.
Theo đó, tổ chức bộ máy và lực lượng (con người) của Bộ Tư pháp cũng được
thay đổi, bổ sung để đáp ứng với yêu cầu trong việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ đó. Điều này cần làm sáng tỏ trên cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Xét về phương diện lập pháp: pháp luật về THA phạt tù và THA dân sự có đối
tượng, phương pháp, phạm vi điều chỉnh và quá trình tổ chức thực hiện khác nhau.
Nếu được xây dựng chung trong cùng một bộ luật sẽ dẫn đến một thực tế là: cùng
một bộ luật nhưng đối tượng, phương pháp và phạm vi điều chỉnh của hai lĩnh vực
này lại khác nhau. Đây là vấn đề cần được cân nhắc kỹ.
Xét về tính chất hoạt động: tính chất hoạt động của lực lượng THA phạt tù và
THA dân sự hoàn toàn có sự khác nhau - ít nhất là cho đến lúc này - ở nước ta.
Lực lượng THA phạt tù thuộc Bộ Công an, do lực lượng vũ trang thực hiện, còn
lực lượng THA dân sự thuộc Bộ Tư pháp, hoạt động không mang tính chất vũ
trang. Hơn nữa, những người trong lực lượng THA dân sự có chức danh tư pháp
(chấp hành viên) trong hệ thống các chức danh tư pháp. Như vậy, nếu sáp nhập hai
lực lượng này trong cùng một hệ thống tổ chức, vấn đề trên được xử lý như thế
nào? Do đó, khi tiếp thu kinh nghiệm của các nước về mô hình tổ chức cơ quan
quản lý nhà nước về THA phạt tù, chúng ta phải xem xét, tính toán, cân nhắc kỹ
để tiếp thu được những kinh nghiệm hay, đồng thời cũng tránh được những hậu
quả đáng tiếc xảy ra do nóng vội trong khi vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài.
2.3. Hình thức và chế độ giam giữ đối với người phải chịu hình phạt tù
Hình thức và chế độ giam giữ áp dụng đối với người phải THA phạt tù trực tiếp
tác động đến hiệu quả của công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội. Việc nghiên
cứu và áp dụng về hình thức, chế độ giam giữ đối với người phải chịu hình phạt tù
đòi hỏi phải được xem xét trong mối quan hệ tương đồng giữa trừng trị - giam giữ
với việc đề cao giá trị quyền con người. Sẽ rất sai lầm khi nhấn mạnh yếu tố trừng
phạt đối với người phải chịu hình phạt tù, vì điều đó sẽ làm tăng ý thức phản
kháng và sự bất mãn đối với xã hội, để từ đó làm nẩy sinh những hành vi tiêu cực
mới - tái phạm tội - của người phải chịu hình phạt tù.* Ngược lại, nếu coi nhẹ yếu
tố trừng phạt và nhấn mạnh đến yếu tố quyền con người, trong đó có quyền tự do
sẽ làm cho tính nghiêm minh của pháp luật không được tôn trọng, thậm chí làm
mất đi tính cưỡng chế của pháp luật, dẫn đến sự coi thường pháp luật.
Vì lý do trên, nhiều nước đã quan tâm rất nhiều đến việc nghiên cứu và áp dụng
các hình thức và chế độ giam giữ đối với người phải chịu hình phạt tù, nhằm bảo
đảm kết hợp hài hoà giữa trừng phạt và cải tạo. Theo đó, bên cạnh việc bắt buộc
người bị áp dụng hình phạt tù thụ hình án trong các trại giam, nhiều nước còn áp
dụng các hình phạt, chế độ “giam giữ ngoài nhà tù” và đạt hiệu quả tốt trong giáo
dục, cải tạo người phạm tội. Ví dụ, ở Australia, ngoài việc áp dụng chế độ giam
giữ trong các trại giam tập trung, nhà nước còn áp dụng hình thức “quản chế tại
nhà”. Hình thức giam giữ tù nhân tại nhà chỉ được thực hiện khi những thành viên
sống cùng địa chỉ với người phạm tội chấp thuận và đồng thời phải bảo đảm để
việc áp dụng hình thức giam giữ này không làm ảnh hưởng đến thời gian và mọi
hoạt động riêng tư cũng như bảo đảm an toàn về con người cũng như tài sản của
các thành viên khác. Trong quá trình thực hiện hình thức giam giữ này, cơ quan
quản lý nhà nước phải duy trì sự giám sát của mình, đồng thời phải xây dung được
một quy chế chặt chẽ, một hệ thống giám sát hữu tuyến trên cơ sở bảo đảm tính
hợp pháp trong quá trình lắp đặt và vận hành.
Cùng với các hình thức giam giữ trên, ngày nay nhiều nước như: ấn Độ, Mỹ, Anh,
Thuỵ Điển, Hà Lan, Bỉ, Pháp, Australia, Tây Ban Nha (đang thử nghiệm)... đã vận
dụng sự tiến bộ phát triển về khoa học kỹ thuật để áp dụng hình thức “giám sát
điện tử” đối với người phạm tội bị phạt tù giam. Hệ thống thiết bị điện tử truyền
tín hiệu được thiết kế bảo đảm sự tương thích với các yêu cầu của hệ thống giám
sát điện tử. Cùng với việc áp dụng hình thức giám sát điện tử, các nước này đã xây
dựng đồng bộ một hệ thống quy định chặt chẽ, bao gồm cả những điều kiện cụ thể
để được áp dụng hình thức trên đối với người phải chịu án hình phạt tù. Ví dụ,
pháp luật nước Anh chỉ bắt buộc mang vòng điện tử tối đa hai năm đối với người
lớn và ba tháng đối với người chưa thành niên. ở Mỹ (bang Florida), hình thức
giám sát điện tử không áp dụng đối với những phạm nhân nguy hiểm. ở Pháp,
ngày 26/10/2005 vừa qua, Thượng viện Pháp đã thông qua Luật về xử lý những
trường hợp tái phạm hình sự. Theo đó, người phạm tội sau khi chấp hành hình
phạt một thời gian thay vì tiếp tục phải ngồi tù, họ được mang vòng điện tử để tại
ngoại.
Việc áp dụng các hình thức “giam giữ ngoài nhà tù” ở những nước này đã giải
quyết được tình trạng “quá tải” của các trại giam, giảm được gánh nặng cho nhà
nước, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi cho việc tái hoà nhập cộng đồng xã hội của
những người phải thi hành án sau khi họ mãn hạn tù.
Hiện nay ở Việt Nam, nhiều trại giam cũng rơi vào tình trạng quá tải. Vì vậy, việc
nghiên cứu kinh nghiệm trên đây của các nước trong tương lai là cần thiết. Dĩ
nhiên, việc nghiên cứu, vận dụng đòi hỏi phải xuất phát từ điều kiện cụ thể về kinh
tế, văn hoá, xã hội của nước ta, có tính đến xu thế phát triển của đất nước trong
thời gian tới.
2.4. Biện pháp quản lý, giáo dục và thực hiện các chế độ, chính sách đối với
người bị áp dụng hình phạt tù
Quá trình giam giữ đối với người phạm tội cũng là quá trình giáo dục, cải tạo
người bị kết án tù nhằm giúp họ sửa chữa lỗi lầm để trở về với xã hội. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý giáo dục đối với người
phạm tội trong các trại giam cũng như việc thực hiện các chế độ, chính sách đối
với họ có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó không chỉ nhằm bảo đảm sự chặt chẽ trong
quản lý, giáo dục người phạm tội mà còn động viên, khơi dậy và phát huy ý thức
tự giác, lòng tự trọng của người phạm tội trong quá trình tự rèn luyện, cải tạo
mình, giúp họ sớm tìm lại chân giá trị của mình trong đời sống xã hội. Đồng thời,
việc sử dụng các biện pháp quản lý, giáo dục và thực hiện tốt các chế độ chính
sách đối với người phạm tội trong các trại giam chính là sự phản ánh về trình độ,
năng lực quản lý của nhà nước; sự quan tâm của nhà nước, xã hội đối với những
người bị lầm lỗi; sự thể hiện thái độ của nhà nước về các quyền của con người. Có
thể nói, về vấn đề này nhiều nước đã có nhiều sáng tạo và kinh nghiệm tốt trong
quản lý, giáo dục cũng như thực hiện các chính sách mang tính nhân đạo đối với
người bị áp dụng hình phạt tù.
Ở Trung Quốc, trong các trại giam, công tác cải tạo, giáo dục con người luôn được
đặt lên hàng đầu. Cán bộ quản lý trại giam thường xuyên nâng cao chất lượng cải
tạo giáo dục nhằm một mặt giúp người phạm tội chuyển hoá mạnh mẽ về tư tưởng,
mặt khác giúp họ một cách thiết thực trong việc thay đổi, sửa chữa thói quen xấu,
tích cực học nghề, tạo khả năng tìm kiếm việc làm để tự bảo đảm cuộc sống sau
khi ra tù. Điều đó không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với bản thân người phạm tội
mà còn giảm được gánh nặng cho xã hội và hơn hết, nó có ý nghĩa phòng ngừa rất
lớn. Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, trong vòng 3 ngày kể từ khi phạm
nhân vào trại, cán bộ trại giam phải báo tin cho gia đình phạm nhân biết nơi ở của
phạm nhân. Gia đình phạm nhân được gặp gỡ phạm nhân từ một đến hai lần trong
tháng (mỗi lần không quá một giờ) và có thể được tăng số lần gặp gỡ và số giờ
tiếp xúc (nếu có lý do chính đáng). Ngoài ra, việc gửi và nhận thư được duy trì
thường xuyên và không bị hạn chế về nội dung. Đối với phạm nhân là người dân
tộc thiểu số, họ có thể viết thư bằng ngôn ngữ của dân tộc mình. ở một số trại
giam, cán bộ quản lý trại còn tổ chức cho người thân của phạm nhân thăm nơi ở,
nơi học tập, lao động của phạm nhân. Điều đó có ý nghĩa động viên, giáo dục
phạm nhân rất tốt. Do đó, ở một số trại giam, tình trạng phạm nhân vi phạm nội
quy của trại giảm một cách rõ rệt. Ngoài ra, có những trại giam của Trung Quốc,
cán bộ quản lý còn quan tâm đến cả người thân của phạm nhân khi gặp hoàn cảnh
khó khăn, nhằm giúp phạm nhân yên tâm cải tạo.
Ở Cộng hoà Pháp, theo quy định của pháp luật, nếu phạm nhân vào trại giam mà
không biết đọc, biết viết thì bắt buộc trại giam phải dạy văn hoá, bảo đảm cho
phạm nhân biết đọc, biết viết thông thạo. Đồng thời, phạm nhân có quyền tham gia
vào tất cả các chương trình học tập và được phép có dụng cụ học tập, tài liệu giáo
dục cần thiết phù hợp với điều kiện giam giữ. Trong thời gian chấp hành án trong
các trại giam, phạm nhân có thể theo học các lớp học từ xa do các cơ sở của Bộ
giáo dục tổ chức. Phạm nhân học xong chương trình tiểu học có thể dự thi để lấy
chứng chỉ. Cùng với học văn hoá, phạm nhân trong các trại giam của Pháp có
quyền được thoả mãn các đòi hỏi của đời sống tín ngưỡng, tinh thần hay tôn giáo
của mình. Theo đó, phạm nhân có quyền tiếp đón mục sư, linh mục và được tham
dự các lễ tôn giáo. Điều này rất có ý nghĩa trong việc ổn định tinh thần của phạm
nhân trong quá trình chấp hành án.
Dạy nghề cho phạm nhân là giúp họ có một nghề nghiệp nhất định để khi ra tù, họ
có điều kiện thích ứng với nhu cầu của xã hội và bảo đảm cuộc sống của bản thân
họ. Vì vậy, nó là hoạt động được các nước rất quan tâm. Pháp luật của nhiều nước
có những quy định về đào tạo nghề cho phạm nhân. Theo Luật Quản lý trại giam
của Trung Quốc, việc dạy nghề cho phạm nhân dựa trên nhu cầu sản xuất của
mình và nhu cầu về việc làm của phạm nhân sau khi mãn hạn tù.* Pháp luật của
Pháp quy định phạm nhân được theo những khoá học về kỹ thuật. Ngoài ra, phạm
nhân cũng được hưởng chế độ “nửa tự do” để theo học một khoá học bên ngoài
trại giam nếu xét thấy việc này là cần thiết cho việc tái hoà nhập cộng đồng của
họ. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, nếu hoạt động dạy nghề cho phạm nhân
trong các trại giam càng bảo đảm chất lượng và thiết thực, càng giúp cho người
hết hạn tù nhanh chóng tái hoà nhập với cộng đồng xã hội, càng làm giảm tỷ lệ
người tái phạm tội.
Khi tiếp thu kinh nghiệm của nước ngoài trong lĩnh vực này, chúng ta cần nghiên
cứu, vận dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước hiện nay.
Theo đó, việc dạy nghề cho phạm nhân trong các trại giam đòi hỏi phải được
nghiên cứu, tính toán dựa trên khả năng tiếp thu và nhu cầu của người học, đồng
thời phải tính đến nhu cầu đòi hỏi của xã hội trên từng vùng, miền cụ thể - nơi
người hết hạn tù trở về sinh sống.
2.5. Tái hoà nhập cộng đồng của người hết hạn tù
Đây là kết quả của quá trình giáo dục cải tạo phạm nhân trong các trại giam và là
một trong những cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Vì
vậy, các nước đều quan tâm và có những chủ trương, chính sách, giải pháp hữu
hiệu để bảo đảm cho những người mãn hạn tù nhanh chóng tái hoà nhập vào đời
sống xã hội.
Malaixia thành lập “Uỷ ban trợ cấp xã hội những phạm nhân mãn hạn tù”. Các uỷ
ban này hoạt động giúp đỡ những người mãn hạn tù dưới nhiều hình thức thiết
thực, hiệu quả như giúp tìm việc làm, giúp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh,
tạo điều kiện ổn định sinh hoạt... Ở Cộng hoà Pháp, mỗi trại giam đều thành lập
Phòng xã hội - giáo dục; cơ quan Tòa án có “Uỷ ban án treo và trợ giúp người mãn
hạn tù”. Các uỷ ban này hoạt động với sự tham gia của các cơ quan nhà nước hoặc
các nhà hảo tâm giúp đỡ những người mãn hạn tù tìm kiếm việc làm, trợ giúp vật
chất, giúp ổn định chỗ ở... nhằm giúp những người mãn hạn tù nhanh chóng tái
hoà nhập cộng đồng. Nhiều nước như Nhật Bản, Mỹ, Australia, Trung Quốc, Cộng
hoà liên bang Đức, Anh… đều có những tổ chức tương tự với mục đích nhằm giúp
đỡ người mãn hạn tù nhanh chóng ổn định cuộc sống sau thời gian bị phạt tù. Việc
quan tâm của các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội và của các nhà hảo tâm
trong việc giúp đỡ những người mãn hạn tù sớm hoà nhập cộng đồng xã hội có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc củng cố và nâng cao hơn hiệu quả của quá trình
giáo dục, cải tạo phạm nhân trong các trại giam. Mặt khác, nó đã làm giảm một
cách đáng kể hành vi tái phạm tội của những người mãn hạn tù, thông qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm nói chung.
*
******* *
Trên đây là một số kinh nghiệm của các nước trong quá trình tổ chức THA phạt tù.
Những kinh nghiệm này cần được nghiên cứu, vận dụng trong điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nước ta trong quá trình cải cách tư pháp, nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của công tác THA phạt tù.
*
(Bài viết đăng trên TCNCLP số 69, tháng 4/2006)
TS. Nguyễn Đình Đặng Lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 49_0405.pdf