Trong thời buổi hội nhập, mỗi quốc gia đều cố gắng thể hiện vị thế của mình trên trường quốc tế. Từ các nước phát triển bậc nhất đến các nước đang phát triển đều phải cải cách từng ngày cho phù hợp với các thông lệ quốc tế và sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy công cuộc đổi mới là điều tất yếu cần phải được thực hiện nhanh chóng và kịp thời đối với tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Đổi mới về nhiều mặt như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo, nhưng quan trọng hơn cả là sự đổi mới về kinh tế, bởi kinh tế là nền tảng trụ cột để phát triển một đất nước. Trong lĩnh vực quan trọng này, các quốc gia cần cải cách về chế độ quản lý của nhà nước các luật lệ chung để thích ứng với nhu cầu hội nhâp vào nền kinh tế thế giới. Do vậy điều kiện tiền đề cho việc ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo mức tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, giảm kích thước khu vực công,. là đổi mới tư duy và thể chế quản lý nhà nước, thành phần kinh tế, cách thức quản lý các bộ phận kinh tế, quan hệ kinh tế quốc tế, các hoạt động và giao dịch trong nền kinh tế, Toàn bộ những thay đổi đó tạo ra một mô hình kinh tế mới cho một quốc gia trong quá trình đổi mới nền kinh tế.
54 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1020 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng sản phẩm cho xã hội, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường.
Đại hội Đảng lần thứ VII tiến hành vào cuối tháng 6 năm 1991 đã đánh giá những mặt làm được cũng như chưa được trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 và thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 với mục tiêu tổng quát là: Ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế- xã hội. Phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo tiền đề cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ 21. Tổng sản phẩm trong nước đến năm 2000 gấp đôi năm 1990. Đại hội cũng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ tổng quát cho kế hoạch 5 năm 1991-1995 là: Vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước cơ bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ VIII tiến hành vào tháng 6 năm 1996 đã khẳng định những nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như vậy trong thời gian từ Đại hội VI tới Đại hội VIII, Đảng đã chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thừa nhận mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
2.4.2. Giai đoạn từ Đại hội IX – nay.
Phát huy những kết quả đổi mới đã đạt được, sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết lý luận - thực tiễn, Đại hội IX (4 - 2001) chính thức đưa ra khái niệm "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là đường lối chiến lược nhất quán.
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được khẳng định tại Đại hội Đảng IX năm 2001. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là chịu sự tác động của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hóa, thông qua sự biến động của giá cả thị trường. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo sự điều tiết của cơ chế thị trường, lấy sự tồn tại và phát triển của quan hệ hàng hóa, tiền tệ làm cơ sở, là nền kinh tế hàng hóa đạt đến trình độ xã hội hóa cao và trình độ kỹ thuật cao, trong đó toàn bộ hay hầu hết yếu tố đầu vào hay đầu ra của nền sản xuất đều phải thông qua thị trường.
Còn tính định hướng xã hôi chủ nghĩa được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điểu kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.”
Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, trong khi kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản thì mục đích là thu lợi nhuận cao, còn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì mục đích là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, phấn đấu tiến tới giải phóng người lao động. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nói đến kinh tế không phải là kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc, cũng không phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa.
Đại hội chỉ rõ đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh. Đây là bước phát triển mới rất quan trọng về tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng.
Vậy từ Đại hội Đảng IX, Đảng đã chuyển từ mô hình kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.4.3. Các kết quả đạt được.
Tăng trưởng kinh tế
Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam ước đạt 8,4%, vượt xa con số 7,8% của năm 2004 (Bảng 2.1). Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 9 năm qua kể từ năm 1997. So với các nước trong khu vực Đông Á, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 của Việt Nam là cao thứ hai và chỉ đứng sau Trung Quốc. Mức tăng trưởng cao của năm 2005 đã góp phần quyết định cho việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP trung bình 7,5%/năm đã được đề ra trong Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005.
Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP và đóng góp vào tăng trưởng GDP theo ngành, 2001-2005
2001
2002
2003
2004
Ước đạt 2005
2001-2005
Tốc độ tăng (%)
GDP
6,89
7,08
7,34
7,79
8,43
7,51
Nông nghiệp
2,98
4,17
3,62
4,36
4,04
3,84
Công nghiệp - xây dựng
10,39
9,48
10,48
10,22
10,65
10,24
Dịch vụ
6,10
6,54
6,45
7,26
8,48
6,97
Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo điểm phần trăm
GDP
6,89
7,08
7,34
7,79
8,43
7,51
Nông-lâm-thủy sản
0,69
0,93
0,79
0,92
0,82
0,83
Công nghiệp-xây dựng
3,68
3,47
3,92
3,93
4,19
3,84
Dịch vụ
2,52
2,68
2,63
2,94
3,42
2,84
GDP
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
Nông-lâm-thủy sản
10,07
13,20
10,76
11,80
9,78
11,12
Công nghiệp-xây dựng
53,39
48,95
53,37
50,48
49,71
51,18
Dịch vụ
36,54
37,85
35,86
37,72
40,52
37,70
Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK) và tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (Viện NCQLKTTƯ).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của hai nhóm ngành nông - lâm - thủy sản và công nghiệp - xây dựng. Từ năm 2000 đến năm 2005 tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản giảm 3,8%, còn tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 3,7% (Bảng 2.2). Xét chung trong giai đoạn 2001 - 2005, sự chuyển dịch cơ cấu giữa 3 khu vực không mạnh như trong giai đoạn 5 năm 1996 - 2000.
Bảng 2.2: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế, 2001-2005 (%)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
GDP
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
Nông - lâm – thủy sản
24,53
23,24
23,03
22,54
21,81
20,70
Công nghiệp– xây dựng
36,73
38,13
38,49
39,47
40,21
40,80
Công nghiệp chế biến
18,56
19,78
20,58
20,45
20,34
20,70
Dịch vụ
38,73
38,63
38,48
37,99
37,98
38,50
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Kết quả lớn nhất trong chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp là chuyển dịch trong nội bộ ngành trồng trọt theo hướng giảm diện tích trồng lúa sang trồng các loại cây khác có năng suất và giá trị kinh tế cao hơn.
Trong khu vực công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng không đáng kể, từ 59,2% năm 2000 lên 59,7% năm 2005.
Sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực dịch vụ vẫn diễn ra rất chậm. Hầu hết các ngành dịch vụ quan trọng, có khả năng tạo nhiều giá trị tăng thêm, đều có tỷ trọng nhỏ trong GDP (ví dụ, ngành tài chính, ngân hàng, và bảo hiểm chiếm chưa tới 2,0% GDP năm 2005).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế
Nhìn tổng thể, trong giai đoạn 2001-2005, chuyển dịch cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế diễn ra chậm. Khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng cao và tương đối ổn định trong GDP. Sự chuyển dịch cơ cấu theo thành phần chủ yếu diễn ra giữa khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Năm 2005, tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế nhà nước rất ít thay đổi. Trong khi đó, tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã giảm từ 48,2% năm 2000 xuống còn 45,7% năm 2005. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng thể hiện rõ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế Việt Nam.
Bảng 2.3: Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế, 2001-2005 (%)
2001
2002
2003
2004
Ước 2005
Tổng số
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Vốn nhà nước
59,8
56,3
54,0
53,6
51,5
Vốn ngân sách
26,7
25,0
24,0
25,1
22,7
Vốn tín dụng
16,8
17,6
16,9
16,5
9,2
Vốn DNNN
10,6
7,8
9,3
9,1
15,3
Vốn huy động khác
5,6
6,0
3,9
2,9
4,3
Vốn ngoài quốc doanh
22,6
26,2
29,7
30,9
32,2
Vốn FDI
17,6
17,5
16,3
15,5
16,3
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Về đầu tư
Tuy vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, nhưng tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ 59,8% năm 2001 xuống 51,5% năm 2005 (Bảng 2.4). Đây là tín hiệu tích cực đối với nền kinh tế thị trường đang hình thành, phần nào phản ánh môi trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Trong năm 2005, lần đầu tiên Việt Nam phát hành thành công trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế với giá trị 750 triệu USD.
Bảng 2.4: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, 2001-2005 (%)
2001
2002
2003
2004
Ước 2005
Tổng số
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Vốn nhà nước
59,8
56,3
54,0
53,6
51,5
Vốn ngân sách
26,7
25,0
24,0
25,1
22,7
Vốn tín dụng
16,8
17,6
16,9
16,5
9,2
Vốn DNNN
10,6
7,8
9,3
9,1
15,3
Vốn huy động khác
5,6
6,0
3,9
2,9
4,3
Vốn ngoài quốc doanh
22,6
26,2
29,7
30,9
32,2
Vốn FDI
17,6
17,5
16,3
15,5
16,3
Nguồn: TCTK (2005), số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư .
Năm 2005, dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2004. Khu vực FDI tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tiến trình phát triển của Việt Nam và thực sự trở thành bộ phận cấu thành khăng khít của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2005, khu vực FDI đóng góp 15,9% GDP, có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chiếm 57,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, và nộp ngân sách chiếm khoảng 12% tổng thu ngân sách của cả nước.
Thương mại
Năm 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng rất mạnh, ước đạt tới 32,2 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2004, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2001-2005 (17,8%). Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2001-2005 đạt khoảng 110,6 tỷ USD, cao hơn 1,8% so với mục tiêu đặt ra trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2005 ước đạt 36,98 tỷ USD, tăng 4,93 tỷ USD hay 15,4% so với năm 2004. Tuy nhiên, đây là năm có tốc độ tăng nhập khẩu hàng hóa thấp nhất kể từ năm 2002, thấp hơn nhiều mức tăng trung bình 19,1%/năm trong giai đoạn 2001-2005.
Thị trường nội địa tiếp tục phát triển tương đối mạnh mẽ, sôi động.Khối lượng, chất lượng hàng hoá liên tục tăng; không xảy ra tình trạng thiếu hụt, mất cân đối lớn giữa cung và cầu.Các mặt hàng quan trọng, thiết yếu được bảo đảm nguồn cung trong mọi tình huống.Lưu thông hàng hoá được đảm bảo ở cả thị trường thành thị, nông thôn và miền núi. Phương thức đáp ứng nhu cầu mua bán, tiêu dùng trong nước ngày càng đa dạng và văn minh hơn (như siêu thị, trung tâm thương mại, mua bán thanh toán qua thẻ, mua bán tự chọn) đã phần nào thể hiện trình độ tiêu dùng của xã hội đã được nâng cao một bước theo hướng văn minh, hiện đại.
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
3.1. Các thành tựu
Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Thứ nhất, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung chỉ có hai thành phần kinh tế (nhà nước và tập thể) sang mô hình mới - kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó đã mở đường giải phóng mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản xuất. Nhân tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất là con người: người lao động làm chủ, được thúc đẩy bởi quy luật lợi ích, trong đó lợi ích cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện phát triển lợi ích của tập thể và của toàn xã hội.
Thứ hai, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Điểm nổi bật trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới có tính chất đột phá là từ chỗ về cơ bản không sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, chuyển sang coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Còn kế hoạch mang tính định hướng, điều tiết ở tầm vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh. Cơ chế thị trường thừa nhận cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng đồng thời dẫn tới sự chênh lệch, sự phân hóa giàu nghèo. Đây là mặt trái của cơ chế thị trường. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đúng đắn để cho cơ chế thị trường đẩy sự phân hóa giàu nghèo vượt qua giới hạn cho phép. Việt Nam đã giải quyết vấn đề này bằng chính sách xóa đói, giảm nghèo được thực hiện tương đối hiệu quả.
Thứ ba, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành được nhiều thành quả.
Hiện nay, Mô hình kinh tế mới mà chúng ta lựa chọn là: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy chúng ta vẫn còn đề cập đến chủ nghĩa xã hội, song, đó chỉ là định hướng cho tương lai, một tương lai còn khá xa, cái chính, cái trước hết vẫn là nền kinh tế thị trường.Trên thực tế, chúng ta cũng đã cố gắng tạo dựng cho đất nước một nền kinh tế thị trường thực thụ. Việc thừa nhận sở hữu tư nhân và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển; việc giao ruộng đất cho hộ gia đình nông dân sử dụng ổn định và lâu dài với 7 quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi, cho hoặc tặng, góp vốn để kinh doanh); việc nỗ lực hình thành đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế (Thị trường vật tư – hàng hoá, thị trường tài chính-tiền tệ; thị trường khoa học – công nghệ; thị trường lao động, thị trường đất đai – bất động sản), cũng như việc nỗ lực cải cách thể chế kinh tế, làm cho thể chế kinh tế của chúng ta ngày càng phù hợp hơn với thế giới.
Nhờ chuyển đổi mô hình kinh tế, chúng ta đã nhanh chóng tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển mọi mặt của đất nước. Những thành tựu to lớn mà chúng ta có được về chính trị – kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh – quốc phòng trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã cho thấy rất rõ điều đó.
3.2. Các hạn chế
Tuy nhiên, so với thế giới, nền kinh tế thị trường hiện tại của Việt Nam chỉ là nền kinh tế thị trường sơ khai. Nền kinh tế thị trường xuất hiện trong xã hội loài người cách đây vài trăm năm và cho đến nay nó đã trải qua nhiều giai đoạn hoàn thiện và phát triển. Giai đoạn đầu là nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh (sơ khai). Trong mô hình kinh tế này, các yếu tố thị trường chưa được hình thành đầy đủ và đồng bộ, thể chế còn lỏng lẻo, nên để có lợi nhuận cao, đặc biệt là lợi nhuận siêu ngạch, các chủ thể tham gia thị trường đã cạnh tranh với nhau hết sức quyết liệt và bằng mọi thủ đoạn có thể, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là không đáng kể.
Nói nền kinh tế thị trường hiện nay của nước ta là nền kinh tế thị trường sơ khai vì:
Thứ nhất, Các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chủ thể chính của nền kinh tế thị trường của nước ta, mới bắt đầu được hình thành trong 20 năm nay, vì thế số lượng còn ít, quy mô còn nhỏ bé, năng lực mọi mặt, đặc biệt là việc tham gia hội nhập với quốc tế còn rất hạn chế.
Thứ hai, hệ thống các loại thị trường: Thị trường tài chính – tiền tệ, thị trường khoa học – công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai-bất động sản ở nước ta đang trong quá trình hình thành, vì thế nó còn rất sơ khai, yếu ớt và hoạt động chưa theo quy luật của kinh tế thị trường.
Thứ ba, thể chế kinh tế thị trường chưa được xây dựng một cách đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, minh bạch và hội nhập; việc thực thi pháp luật của bộ máy quản lý Nhà nước các cấp còn rất yếu kém, v.v
Nền kinh tế nước ta đã chuyển mạnh sang công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế trên thế giới, do nó nếu chúng ta vẫn giữ mô hình kinh tế thị trường sơ khai, chắc chắn sẽ tạo ra sự cản trở lớn đối với sự phát triển.
Còn định hướng xã hội chủ nghĩa thì như trên thì vẫn chưa hoàn toàn đi vào thực tế, và chưa rõ ràng, nó không những không tạo ra được động lực phát triển mà trong chừng mực nào đó còn đem lại cho chúng ta những khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn do sự phát triển đang đặt ra, cụ thể:
Thứ nhất, nó làm cho chúng ta không triệt để trong đổi mới tư duy kinh tế. Bởi vì, sự đổi mới đó luôn phải được đắn đo, cân nhắc xem nó có chệch định hướng xã hội chủ nghĩa hay không.
Thứ hai, cũng vì phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên chúng ta cũng chưa dám mạnh dạn trong đổi mới thể chế chính trị của đất nước. Thể chế chính trị của chúng ta hiện nay về cơ bản vẫn là thể chế chính trị của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, chứ không phải là thể chế của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, cũng vì phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên cơ chế, chính sách và các giải pháp tổ chức, quản lý nền kinh tế chúng ta đưa ra không rõ ràng, dứt khoát và minh bạch. Điển hình là vấn đề sở hữu, vấn đề đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước, vấn đề đầu tư,
Bên cạnh đó, việc thực hiện chuyển đổi, cải cách và đổi mới kinh tế còn kéo theo một số hệ quả đáng bàn như:
Việc thực hiện kinh tế thị trường nhưng do chưa có kinh nghiệm quản lý nên phân hóa giàu nghèo,ô nhiễm môi trường và các tệ nạn xã hội đã diễn ra với tốc độ tăng nhanh.
Nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh ở mức thấp, gây lãng phí tài nguyên.
Nền kinh tế vẫn nằm ở nhóm nước kinh tế đang phát triển. Trong cơ cấu kinh tế, lao động nông nghiệp vẫn chiếm gần 70% (2010), nền kinh tế vẫn chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Một số thị trường vẫn chưa được thiết lập đầy đủ như: thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ... Một số thể chế pháp luật và hành chính cần thiết cho nền kinh tế thị trường vẫn chưa được quy định hay đã được quy định nhưng không được thực hiện, gây ra tình trạng tham nhũng, cửa quyền... làm chỉ số minh bạch của môi trường kinh doanh thấp.
3.3. Vai trò của Nhà nước
Nội hàm của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam có đặc trưng: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày trở thành nền tảng vững chắc. Để hoàn thiện được mục tiêu phát triển và các đổi mới kế tiếp trong tương lai, Nhà nước cần đảm nhận và hoàn thành tốt các vai trò điều tiết và quản lý nền kinh tế thông qua các công cụ thị trường.
Hiện đang có 3 vấn đề vướng mắc trong tư duy và hành động để có thể hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là:
Cần đổi mới tư duy và hành động trong việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong điều kiện vận hành của thị trường. Đây là vấn đề khá khó khăn và phức tạp của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường của Việt Nam đi sau, nên hoàn toàn có thể vận dụng những công cụ vận hành của thị trường, mà lịch sử phát triển của nó ở nhiều nước cho thấy là đúng đắn và phù hợp. Thị trường là công cụ, là cơ chế chuyển tải mục tiêu phát triển của một quốc gia; chứ tự nó không phải là mục tiêu. Do đó, sử dụng các công cụ kinh tế thị trường không mâu thuẫn với tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa trong mô hình kinh tế của nước ta.
Do thuộc tính của kinh tế thị trường, nên thường xuyên xuất hiện sự xung đột và mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể khác nhau của thị trường.
Để khắc phục được các khuyết tật của thị trường, Nhà nước cần sử dụng các công cụ để định hướng sự vận động của các chủ thể kinh tế phục vụ cho mục tiêu xã hội và bảo vệ môi trường. Biểu hiện rõ nét của xu hướng này là Nhà nước không làm thay thị trường, mà chỉ tập trung giải quyết và xử lý những thất bại của thị trường.
Bên cạnh đó cần hoàn thiện về 5 thành phần kinh tế. Về mặt lý thuyết, nền kinh tế thị trường được vận hành trên “ba chân”, tức là sự cấu thành của ba loại thị trường chính: hàng hóa; vốn và dịch vụ. Ba thị trường này có quan hệ hữu cơ với nhau và luôn luôn phản ánh trình độ phát triển của một nền kinh tế. Từ 3 thị trường cơ bản trên, từ Đại hội Đảng lần thứ IX đã cụ thể hóa 5 loại thị trường ở nước ta và đặt ra yêu cầu hoàn thiện. Tuy nhiên, vấn đề hoàn thiện các loại thị trường ở nước ta cần xác định trên 2 nguyên tắc:
Bảo đảm tính đồng bộ trong mối quan hệ kinh tế giữa các thị trường với nhau. Bởi vì, không có một loại thị trường nào phát triển riêng rẽ, mà luôn luôn là nguyên nhân và kết quả của thị trường kia.
Sự phát triển các loại thị trường phải thông qua các chính sách của Nhà nước, được bảo đảm bằng hệ thống pháp luật có liên quan, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho từng giai đoạn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Dựa vào 2 nguyên tắc này để xem xét về tính đồng bộ và trình độ phát triển của từng loại thị trường trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta. Đồng thời, thông qua hệ thống pháp luật, có liên quan hiện hành, sẽ thấy được những nội dung cần phải hoàn thiện 5 loại thị trường cụ thể sau đây:
Hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính.
Ổn định thị trường bất động sản.
Xây dựng thị trường hàng hóa tương lai và phát triển mạng lưới thương mại hiện đại.
Hoàn thiện và phát triển thị trường lao động.
Hoàn thiện thị trường công nghệ.
Bên cạnh đó cần có sự đột phá trong cải cách hành chính và tài chính công, Xác lập quan điểm về chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam và Phát triển công nghiệp phụ trợ.
KẾT LUẬN
Cải cách cơ chế kinh tế, thay đổi mô hình kinh tế và thực hiện các công cuộc chuyển đổi là quá trình tất yếu để phát triển nền kinh tế của quốc gia. Nếu như cơ chế kinh tế là phương thức tự vận động của nền kinh tế, là biểu tượng của nhân tố khách quan thì mô hinh kinh tế là cách thức mô tả thực thể kinh tế đã được đơn giản hóa để giải quyết những vấn đề quan trọng của nền kinh tế là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Bắt đầu đổi mới từ năm 1986 đến nay đã trải qua gần 30 năm, nền kinh tế Việt Nam đã thay đổi toàn diện, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự đổi mới này là hoàn toàn phù hợp với lộ trình phát triển của thế giới trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế chính vì thế đã đem đến cho Việt Nam những thành công nhất định. Bên cạnh đó chúng ta vẫn còn một số hạn chế nhất định và cần Đảng và Nhà nước không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý để liên tục bổ sung cũng như xây dựng những quan điểm phù hợp với tình hình kinh tế trong từng giai đoạn, để thực hiện được mục tiêu dân giàu – nước mạnh, hòa nhập được với xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới và khu vực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Đinh Sơn Hùng (1993), “Những vấn đề cơ bản của các lý thuyết kinh tế”, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
Hoàng Phê (2000), “Từ điển Tiếng Việt”, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, trang 283
Larousse-Bordas (1999), Từ điển bách khoa “Le Petit Larousse”, Nhà xuất bản Thế giới, trang 894.
Lê Văn Sang, “Các mô hình kinh tế thị trường trên thế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cai_cach_co_che_kinh_te_4892.docx