Trưởng Bộ môn Công pháp quốc tế, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Mong muốn xây dựng bản “Hiến pháp” về biểncủa nhân loại đã trở thành hiện
thực vào ngày 30/4/1982 khi Công ước của Liên hiệp quốc HQ về luật biển với
320 điều và 9 phụ lục đính kèm đã được thông qua tại New York và mở cho các
quốc gia ký tại Montegobay-Giamaica vào ngày 10/12/1982 sau 5 năm trù bị
(1968 -1973) và 09 năm đàm phán chính thức (1973-1982) với 11 khóa họp. Công
ước đã chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994(12 tháng sau ngày Guyana,
nước thức 60 phê chuẩn)[2]. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn
Công ước vào ngày 23/6/1994 vànộp lưu chiểu Liên hiệp quốc vào ngày
25/7/1994.
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Cách xác định và chế độ pháp lý của các vùng biển theo công ước của liên hiệp quốc về luật biển năm 1982, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁCH XÁC ĐỊNH VÀ
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA
CÁC VÙNG BIỂN
CÁCH XÁC ĐỊNH VÀ CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CỦA CÁC VÙNG BIỂN
THEO CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982[1]
……………………………….
NCS.Ths. Ngô Hữu Phước
Trưởng Bộ môn Công pháp quốc tế, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Mong muốn xây dựng bản “Hiến pháp” về biển của nhân loại đã trở thành hiện
thực vào ngày 30/4/1982 khi Công ước của Liên hiệp quốc HQ về luật biển với
320 điều và 9 phụ lục đính kèm đã được thông qua tại New York và mở cho các
quốc gia ký tại Montegobay-Giamaica vào ngày 10/12/1982 sau 5 năm trù bị
(1968 -1973) và 09 năm đàm phán chính thức (1973-1982) với 11 khóa họp. Công
ước đã chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994(12 tháng sau ngày Guyana,
nước thức 60 phê chuẩn)[2]. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã phê chuẩn
Công ước vào ngày 23/6/1994 và nộp lưu chiểu Liên hiệp quốc vào ngày
25/7/1994.
Lần đầu tiên trong lịch sử, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển quốc tế năm
1982 (gọi tắt là Công ước 1982) đã qui định một cách tổng thể các vấn đề pháp lý
về: Chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền
tài phán quốc gia; Biển cả và đáy đại dương; Các qui định về hàng hải, hàng
không; Sử dụng và quản lý tài nguyên sinh vật biển; Bảo vệ môi trường biển; An
ninh trên biển và hợp tác quốc tế về biển.
Theo quy định của Công ước của Công ước 1982), biển và đại dương được chia
thành 03 vùng (khu vực) có chế độ pháp lý khác nhau:
- Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia (Nội thủy và Lãnh hải);
- Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia (Tiếp giáp
lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa);
- Các vùng biển chung của cộng đồng quốc tế (Biển quốc tế và đáy đại dương -la
zone).
I. CÁC VÙNG BIỂN THUỘC CHỦ QUYỀN QUỐC GIA
1. Nội thủy
1.1 Khái niệm và cách xác định nội thủy
Khoản 1, Điều 8 Công ước 1982 định nghĩa, nội thủy là:“…các vùng nước phía
bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia”. Như vậy, nội
thủy của quốc gia ven biển chính là vùng biển có chiều rộng được xác định bởi
một bên là đường bờ biển còn bên kia là đường cơ sở. Đối với quốc gia quần đảo,
vùng nước này là toàn bộ phần nước biển nằm trong đường cơ sở của quốc gia
quần đảo, được gọi là vùng nước quần đảo. Vùng nước quần đảo chính là “nội
thủy” của quốc gia quần đảo.
Về phương diện pháp lý, muốn xác định nội thủy, lãnh hải và các vùng biển thuộc
quyền chủ quyền quốc gia trên biển phải xác định đường cơ sở.Đường cơ sở là
ranh giới phía trong của lãnh hải và ranh giới phía ngoài của nội thủy dùng để tính
chiều rộng của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyến quốc gia.
* Phương pháp xác định đường cơ sở
Theo quy định tại Điều 5 và Điều 7 của Công ước 1982, có hai phương pháp để
xác định đường cơ sở đó là phương pháp đường cơ sở thông thường và phương
pháp đường cơ sở thẳng.
+ Phương pháp đường cơ sở thông thường
Điều kiện áp dụng: Phương pháp đường cơ sở thông thường áp dụng đối với các
quốc gia có bờ biển thẳng, bằng phẳng, không có các đoạn lồi lõm ven bờ, thủy
triều ổn định và thể hiện rõ ràng.
Cách xác định: Quốc gia ven biển sẽ chọn một ngày, tháng, năm khi ngấn nước
thủy triều xuống thấp nhất dọc bờ biển. Dựa vào các điểm, tọa độ đã thể hiện tại
ngấn nước thủy triều vào thời điểm đó, quốc gia ven biển sẽ tuyên bố đường cơ sở
của quốc gia mình. Tuy nhiên, xác định đường cơ sở theo phương pháp thông
thường có một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, các điểm, toạ độ thể hiện ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất dọc theo
bời biển để xác định đường cơ sở do chính quốc gia đó tuyên bố nên sẽ không
tránh khỏi tình trạng các quốc gia đưa ra tuyên bố không đúng thực tế nhằm mục
đích mở rộng càng nhiều càng tốt nội thủy của quốc gia mình ra bên ngoài. Chính
vì vậy, mức độ chính xác của các tọa độ, các điểm xác định dựa vào ngấn nước
thủy triều sẽ không cao.
Thứ hai, cộng đồng quốc tế sẽ rất khó khăn trong việc chứng minh tính xác thực
của các điểm, các toạ độ mà quốc gia ven biển đã tuyên bố.
Thứ ba, áp dụng phương pháp đường cơ sở thông thường, các quốc gia ven biển sẽ
có một vùng nội thủy rất hẹp và đây chính là lý do mà các quốc gia trên thế giới
thường không muốn áp dụng hoàn toàn đường cơ sở theo phương pháp này mặc
dù căn cứ vào các quy định của Công ước 1982 là hoàn toàn phù hợp.
+ Phương pháp đường cơ sở thẳng
Theo qui định của Công ước 1982, để xác định đường cơ sở theo phương pháp
đường cơ sở thẳng, bờ biển của quốc gia phải đáp ứng một trong các điều kiện sau
đây:
- Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc có một chuỗi đảo nằm sát và chạy
dọc theo bờ biển (khoản 1, Điều 7);
- Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm
tự nhiên khác...(khoản 2, Điều 7).
Trong trường hợp này, đường cơ sở là đường thẳng gãy khúc được xác định bằng
cách nối các điểm nhô ra xa nhất của các đảo ven bờ, của các mũi, các đỉnh chạy
dọc theo chiều hướng chung của bờ biển lại với nhau thành đường cơ sở để tính
chiều rộng của lãnh hải.
Tránh tình trạng xác định đường cơ sở ra quá xa bờ biển, tùy ý nối tắt nhiều điểm
không thực chất thành các đoạn thẳng để có nội thủy rộng lớn, Điều 7 Công ước
1982 quy định phương pháp xác định đường cơ cơ sở thẳng phải bảo đảm:
- Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển
(khoản 3, Điều 7). Tuyến đường cơ sở phải phù hợp địa hình tự nhiên của bờ biển
của quốc gia đó).
- Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi
lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường
xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự
thừa nhận chung của quốc tế (khoản 4, Điều 7). Có nghĩa là, các bãi cạn lúc chìm,
lúc nổi không phải là các điểm vật chất thực tế dùng làm căn cứ để vạch đường cơ
sở nếu trên các bãi cạn đó không có các công trình xây dựng thường xuyên nhô
trên mặt nước như các đảo và các công trình thiết bị nhân tạo, các ngọn đèn biển
(hải đăng)...
- Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng
theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích
kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được
một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng (khoản 5, Điều 7). Có nghĩa là,
khi các quốc gia mà địa hình tự nhiên của bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu
có một chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc theo bờ biển thì quốc gia ven biển có thể
vạch đến các đảo và các khu vực xung quanh mà quốc gia đó đã khai thác và sử
dụng trong một quá trình lịch sử lâu dài nhưng không có sự phản đối hoặc tranh
chấp của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
- Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho
lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh
tế (khoản 6, Điều 7).
Công ước 1982 không quy định cụ thể tiêu chí để xác định bờ biển bị khoét sâu,
lồi lõm mà chỉ đưa ra định nghĩa về vịnh do bờ biển của một quốc gia bao bọc tại
Điều 10. Chính vì vậy, các quốc gia ven biển thường bằng mọi cách để xác định
đường cơ sở theo phương pháp đường thẳng gãy khúc (toàn bộ tuyến đường cơ sở
hoặc một số đoạn đường cơ sở). Nhằm tránh tình trạng này, Ủy ban pháp luật quốc
tế của Liên hợp quốc đã đưa ra định nghĩa thế nào là “bờ biển bị khoét sâu, lồi
lõm”. Theo đó, bờ biển khoét sâu, lồi lõm phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:
- Bờ biển bị khoét sâu, lồi lõm phải có ít nhất từ 3 vùng lõm sâu rõ rệt;
- Các vùng lõm này phải nằm cạnh nhau, không cách nhau quá xa;
- Chiều sâu của từng vùng lõm đó tính từ đường cơ sở thẳng được đề nghị đóng
cửa đổ ra biển của vùng lõm đó phải lớn hơn một nửa chiều dài của đoạn đường
cơ sở đó.
Và cũng theo khuyến cáo của Ủy ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc thuật
ngữ: “Chuỗi đảo nằm sát và chạy dọc theo bờ biển” phải có ít nhất từ 3 đảo trở lên
và phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Điểm gần bờ nhất của mỗi đảo trong chuỗi đảo cách đường bờ biển không quá
24 hải lý, cách bờ xa nhất không quá 48 hải lý;
- Mỗi đảo trong chuỗi cách các đảo khác cũng trong chuỗi mà đường cơ sở thẳng
được vẽ qua một khoảng cách không quá 24 hải lý.
- Chuỗi đảo phải chắn ít nhất 50% đường bờ biển liên quan.
Về chiều dài các đoạn đường cơ sở và góc lệch mà đường cơ sở tạo với bờ biển,
Ủy ban pháp luật quốc tế của Liên hợp quốc khuyến cáo:
- Chiều dài của đoạn đường cơ sở thẳng không nên quá 60 hải lý;
- Góc lệch lớn nhất giữa đoạn cơ sở thẳng với bờ biển không quá 20 độ.
Tùy theo đặc điểm địa hình bờ biển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ mà đường cơ
sở của các quốc gia, các vùng lãnh thổ xác định theo phương pháp đường cơ sở
thông thường hay đường cơ sở thẳng hoặc kết hợp cả hai phương pháp trên.
Đối với các quốc gia quần đảo (État archipel), khi xác định đường cơ sở, tại Điều
47 Công ước 1982 quy định:
“Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền
các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần
đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác
lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở
giữa tỷ lệ 1/1 và 9/1”[3];
Khi xác định đường cơ sở của quốc gia quần đảo, các quốc gia quần đảo phải tuân
thủ các điều kiện quy định của Công ước 1982 đó là:
- Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên có thể
có tối đa là 3% của tổng các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có một
chiều dài lớn hơn, nhưng cũng không quá 125 hải lý[4];
- Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung
của quần đảo[5];
- Các đường cơ sở không thể kéo đến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm lúc
nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường
xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách
hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng của lãnh hải[6];
- Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ các đường cơ sở
khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với biển cả hay với một
vùng đặc quyền kinh tế[7];
- Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm giữa hai
mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các quyền và mọi lợi ích chính đáng
mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở trong các vùng nước
nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều ước được ký kết giữa hai
quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng[8];
Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã nêu ở khoản
1, Điều 47 Công ước 1982 quy định các vùng nước bên trong các bãi đá ngầm bao
quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có
sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay
một chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ
phận của đất[9].
Việt Nam đã tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt
Nam ngày 12-11-1982. Theo tuyên bố này, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải của lục địa Việt Nam là hệ thống đường cơ sở thẳng gãy khúc nối liền các
đảo, mũi nhô ra xa nhất dọc theo bờ biển qua 11 điểm thành 10 đoạn thẳng xuất
phát từ đường thẳng nối liền đảo Thổ Chu và đảo Poulo Wai (Cămpuchia)[10].
Tuyên bố về đường cơ sở Việt Nam chủ yếu được xác định theo phương pháp
đường thẳng gãy khúc, trong 11 điểm xác định, chỉ có 1 điểm duy nhất được xác
định theo phương pháp đường cơ sở thông thường ( điểm A8 tại Mũi Đại Lãnh).
Tuy nhiên, hệ thống đường cơ sở của Việt Nam vẫn chưa bao quát hết chiều dài
bờ biển vì còn có hai vị trí chưa xác định, đó là điểm số 0 nằm trên vùng nước lịch
sử của Cộng hòa nhân dân Cămpuchia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
phần còn lại từ đảo Cồn Cỏ cho tới hết vùng biển phía Bắc của Việt Nam. Tuyên
bố về đường cơ cơ sở của Việt Nam đưa ra trong bối cảnh tranh chấp rất phức tạp
trên biển Đông, tất cả các vùng chồng lấn giữa Việt Nam và các quốc gia trong
khu vực chưa được giải quyết hoặc đang trong giai đoạn đàm phán nên chúng ta
chưa thể xác định hệ thống đường cơ sở hoàn chỉnh, khép kín vào thời điểm đó.
Tuyên bố đã nêu rõ, đoạn đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh Bắc Bộ sẽ
được công bố sau khi vấn đề của vịnh được giải quyết[11].
Khi Việt Nam đưa ra tuyên bố về đường cơ sở nói trên đã có 10 quốc gia phản đối,
gồm Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia, Xingapo, Anh, Pháp, Cộng hòa Liên bang
Đức, Mỹ, Nhật Bản, Úc phản đối, tập trung vào các điểm từ A1 đến A7[12].
Thực tế, khi nghiên cứu Công ước 1982, khuyến cáo của Ủy ban pháp luật quốc tế
của Liên hợp quốc về vạch đường cơ sở và tuyên bố ngày 12-11-1982 Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có thể khái quát đường cơ sở của Việt
Nam như sau:
Thứ nhất, về cơ bản đường cơ sở mà Việt Nam áp dụng là đường cơ sở thẳng (chỉ
có một điểm duy nhất, điểm A8 được xác định theo phương pháp đường cơ sở
thông thường). Theo phụ lục và bản đồ kèm tuyên bố này, đường cơ sở được xác
định của Việt Nam bao gồm 10 đoạn thẳng nối 11 điểm khác nhau chạy dọc theo
bờ biển lục địa.
Thứ hai, trong số 11 điểm toạ độ được công bố để xác định đường cơ sở, điểm A8
là điểm ven bờ biển (Mũi Đại Lãnh), 10 điểm còn lại đều nằm trên các đảo ven bờ.
Trong đó, khoảng cách giữa điểm toạ độ gần bờ nhất là 0,5 hải lý và điểm xa nhất
là 74 hải lý. Khoảng cách gần nhất giữa các điểm là 1,952 hải lý và khoảng cách
xa nhất là 162,7 hải lý.
Thứ ba, đường cơ sở Việt Nam là đường cơ sở chưa hoàn chỉnh, vì ở phía Nam
điểm Ao chưa xác định (Điểm Ao là điểm tiếp nối ranh giới đường cơ sở của Việt
Nam và Cămpuchia trong vùng nước lịch sử chung Việt Nam - Cămpuchia)[13].
Điểm cuối cùng của đường cơ sở Việt Nam là điểm A11 (đảo Cồn Cỏ) nằm ở cửa
vịnh Bắc Bộ.
Thứ tư, ngoài đường cơ sở áp dụng cho lãnh thổ đất liền, đường cơ sở áp dụng cho
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa chưa được xác định. Theo Điều 4
Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ
sở của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12-11-1982 thì đường cơ sở áp
dụng cho hai quần đảo này sẽ được quy định trong các văn bản sẽ ban hành sau.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào xác định đường cơ sở
chính xác cho hai quần đảo này.
1.2 Chế độ pháp lý của nội thủy
Nội thủy là một vùng biển gắn với đất liền, là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia,
tại đó quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối. Chủ quyền này bao
trùm cả lớp nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời trên nội thủy.
Chính vì vậy, trong vùng nội thủy, quốc gia ven biển sẽ thực hiện đầy đủ quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp giống như trên đất liền. Mọi luật lệ do quốc gia ban
hành đều được áp dụng cho vùng nội thủy mà không có một ngoại lệ nào.
Chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng nội thủy được quy
định rõ ràng và chủ yếu trong các văn bản pháp luật quốc gia. Theo pháp luật Việt
Nam, chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia trong vùng nội thủy được quy
định trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau, từ Hiến pháp[14] đến các luật và các
văn bản dưới luật như Luật hình sự Việt Nam năm 1999, Luật biên giới quốc gia
năm 2003[15], Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam
ngày 12-5-1977 (đoạn 2, điểm 1), Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải Việt
Nam ngày 12-11-1982 (điểm 5), Nghị định 30-CP ngày 29-1-1980 về quy chế hoạt
động của tàu thuyền nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam, Nghị định số 55-CP
ngày 1-10-1996 về hoạt động của tàu quân sự vào thăm nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nghị định 71/2006/NĐ-CP về quản lý cảng biển và luồng hàng
hải, Nghị định 61/2003/NĐ-CP về quy chế khu vực biên giới biển...
Tàu quân sự và tàu nhà nước sử dụng vào mục đích phi thương mại muốn vào nội
thủy quốc gia ven biển phải xin phép trước, trừ những trường hợp bất khả kháng
như tàu gặp các sự cố nghiêm trọng về kỹ thuật không thể tiếp tục được hành trình
hoặc các lý do về thiên tai (động đất, sóng thần, bão, lốc...), hoặc các lý do nhân
đạo (như cứu người bị bệnh nan y, cứu tàu thuyền hoặc thủy đoàn của tàu khác
gặp nạn trên biển..) thì chỉ cần thông báo trước khi vào nội thủy.
Khi vào nội thủy, tàu quân sự nước ngoài phải tuân thủ các quy định của quốc gia
ven biển về thời gian và thủ tục xin phép; tuyến đường hàng hải; hoa tiêu; kiểm
dịch; y tế, hải quan; bảo vệ môi trường; quay phim, chụp ảnh; thăm dò, đo đạc; sự
quản lý và giám sát của bộ đội biên phòng hoặc lực lượng bảo vệ bờ biển; chế độ
sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc và các loại trang thiết bị vũ khí, chất
độc, chất phóng xạ trên tàu... và các quy định khác của cảng biển.
Đặc biệt, đối với các tàu Citec, tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân và
các tàu chở các chất hay các nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy
hiểm hay độc hại có thể bị bắt buộc đi theo tuyến đường nhất định nhằm bảo đảm
an toàn và phòng tránh các sự cố hàng hải gây nguy hiểm cho quốc gia ven biển
trong vùng nội thủy. Đối với tàu ngầm (kể cả tàu quân sự và tàu dân sự) khi vào
nội thủy của quốc gia ven biển phải vận hành ở tư thế nổi, phải mang cờ mà tàu
mang quốc tịch và phải chấp hành nghiêm các quy định của nước sở tại.
Tàu quân sự khi vào nội thủy của quốc gia ven biển phải tuân thủ chế độ pháp lý
chặt chẽ hơn so với tàu dân sự vì liên quan tới các vấn đề như an ninh, quốc
phòng, chủ quyền quốc gia ven biển... Chính vì vậy, các quy định về thủ tục ra
vào, hoạt động trong nội thủy đối với loại tàu này chặt chẽ và nghiêm ngặt hơn các
quy định đối với tàu dân sự.
Đối với tàu dân sự, về nguyên tắc, tất cả những quy định về thủ tục, điều kiện ra
vào, hoạt động trong vùng nội thủy quốc gia ven biển đối với tàu quân sự cũng
được áp dụng đối với tàu dân sự. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu và lợi ích về kinh
tế, thương mại cũng như tự do hàng hải, pháp luật của tất cả các quốc gia đều quy
định và tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho tàu thuyền dân sự nước ngoài ra vào
một số cảng của quốc gia ven biển (có quốc gia công bố số cảng mà tàu thuyền
dân sự được phép ra vào, có quốc gia công bố một số cảng không cho phép các tàu
thuyền đó ra vào)[16]. Chính vì vậy, pháp luật của các quốc gia thường cho phép
các tàu dân sự nước ngoài ra vào các cảng biển quốc tế trên cơ sở tự do thông
thương và có đi có lại. Mặt khác, trình tự, thủ tục ra vào và hoạt động của tàu dân
sự nước ngoài trong vùng nội thủy quốc gia ven biển sẽ được quy định đơn giản
và linh hoạt hơn so với các quy định dành cho tàu quân sự.
* Quyền tài phán của quốc gia ven biển trong nội thủy
- Đối với tàu quân sự (bao gồm cả tàu Nhà nước sử dụng vào mục đích phi thương
mại)
Các tàu thuyền quân sự thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quốc gia đó giao
phó. Thành viên (thủy thủ đoàn) của tàu quân sự cũng chính là những công dân
mang quốc tịch của quốc gia mà tàu mang cờ. Chính vì vậy, khi hoạt động ở bất
cứ vùng biển nào kể cả các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc
gia khác hay vùng biển quốc tế, tàu quân sự nước ngoài sẽ được hưởng quyền
miễn trừ tuyệt đối, và bất khả xâm phạm.
Trong trường hợp tàu quân sự nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật của quốc
gia ven biển thì quốc gia ven biển có quyền:
- Yêu cầu tàu đó ra khỏi vùng nội thủy trong một thời gian nhất định (có thể thông
báo cho tàu đó biết quyết định của quốc gia chủ nhà bằng miệng hoặc bằng văn
bản);
- Yêu cầu quốc gia mà tàu đó mang quốc tịch phải áp dụng chế tài nghêm khắc đối
với thủy thủ đoàn vi phạm;
- Yêu cầu quốc gia có tàu phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của tàu đó
gây ra trong nội thủy của quốc gia ven biển.
- Đối với tàu dân sự
* Quyền tài phán dân sự
Về nguyên tắc, đối với tàu dân sự, luật điều chỉnh là luật của quốc gia mà tàu
mang cờ. Chính vì vậy, các Tòa án của quốc gia ven biển không có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp dân sự xảy ra giữa các thành viên của thủy thủ đoàn với
các công dân nước ngoài không thuộc thủy thủ đoàn trên tàu mà vụ việc sẽ thuộc
thẩm quyền giải quyết của quốc gia tàu mang quốc tịch.
* Quyền tài phán hình sự
Tàu dân sự nước ngoài khi hoạt động trong nội thủy của quốc gia ven biển sẽ
không được hưởng quyền miễn trừ như tàu quân sự. Bởi lẽ, tàu dân sự là những
chiếc tàu do tư nhân, pháp nhân làm chủ hoặc là tàu nhà nước sử dụng vào mục
đích thương mại như vận tải, buôn bán nhằm mục đích kiếm lãi. Chính vì vậy,
theo luật quốc tế, quốc gia ven biển sẽ có thẩm quyền xét xử đối với các vụ vi
phạm pháp luật hình sự xảy ra trong tàu dân sự nước ngoài đang hoạt động trong
vùng nội thủy quốc gia ven biển. Theo đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
quốc gia ven biển có quyền khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các cá nhân có hành
vi phạm tội trên tàu. Tuy nhiên, thông thường các quốc gia ven biển không quan
tâm đến các vi phạm pháp luật chung nếu an ninh, trật tự trong cảng không bị tổn
hại.
2.1 Khái niệm và cách xác định lãnh hải
Theo Điều 2 Công ước 1982, “chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra
ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, trong trường hợp quốc gia quần đảo, ra
ngoài vùng nước quần đảo đến một vùng gọi là lãnh hải. Chủ quyền này được mở
rộng đến vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển” .
Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 12-5-
1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam đã nêu rõ:“Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra xa nhất của bờ
biển và các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn nước
thủy triều thấp nhất trở ra... Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện
chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng
trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải[17]”.
Luật biên giới quốc gia năm 2003 quy định:“Lãnh hải của Việt Nam rộng 12 hải
lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải
của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo[18]”.
Điều 3 Công ước 1982 về chiều rộng lãnh hải quy định: “Mọi quốc gia đều có ấn
định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ
đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”.
Đối với Việt Nam, theo Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt
Nam ngày 12-5-1977[19] và Luật biên giới quốc gia năm 2003[20], lãnh hải Việt
Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Theo các văn bản pháp luật này, chiều
rộng của lãnh hải Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 3 Công ước
1982.
Xác định chiều rộng của lãnh hải sẽ được tiến hành trong hai trường hợp khác
nhau.
Thứ nhất, nếu quốc gia không đối diện, không tiếp giáp với các quốc gia trên biển.
Trong trường hợp này, quốc gia sẽ căn cứ vào đặc điểm địa hình của bờ biển và
các quy định của Công ước 1982 để xác định đường cơ sở và tuyên bố chiều rộng
của lãnh hải (không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở). Sau đó quốc gia ven biển
công bố theo đúng thủ tục các hải đồ hay các bản kê các tọa độ địa lý và gửi đến
Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu[21]. Trong trường hợp này, ranh
giới phía ngoài của lãnh hải chính là đường biên giới quốc gia trên biển.
Thứ hai, việc hoạch định ranh giới lãnh hải (biên giới quốc gia trên biển) giữa hai
quốc gia có bờ biển liền kề hoặc đối diện nhau.
Theo quy định tại Điều 15 Công ước 1982: “Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau
hoặc đối diện nhau không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá
đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa
thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có
những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch
định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác”.
2.2 Chế độ pháp lý của lãnh hải
Có thể khẳng định rằng, điểm khác biệt cơ bản về chủ quyền của quốc gia ven
biển đối với lãnh hải so với nội thủy chính là ở lãnh hải thừa nhận quyền “qua lại
không gây hại” của tàu thuyền nước ngoài. Quyền qua lại không gây hại của tàu
thuyền nước ngoài trong lãnh hải là một quy tắc tập quán quốc tế đã được thừa
nhận từ lâu trong lĩnh vực hàng hải quốc tế và ngày nay đã trở thành quy tắc điều
ước và được q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 150_1628.pdf