Việc tăng hiệu quả của giáo viên là chìa khóa cải tiến chất lượng giáo dục phổ thông.
Hầu hết các hệ thống giáo dục trên thế giới gần đây mới chỉ tập trung nỗ lực cải
cách đào tạo giáo viên ban đầu. Những cách mà các ứng viên sư phạm được đào
tạo thành giáo viên có ảnh hưởng quan trọng đến việc giáo viên có thể dạy và trò có
thể học. Tuy nhiên, trên thế giới, rất ít quốc gia có hệ thống đào tạo giáo viên hiệu
quả. Nhiều chương trình đào tạo giáo viên rất thiếu thực tiễn, và hầu như tất cả đang
đi tìm cách làm tốt nhất còn nằm ở phía trước.
Xuất phát từ tình hình đào tạo giáo viên không hiệu quả, trước nhiệm vụ cấp bách đột
phá tái cấu trúc hệ thống đào tạo giáo viên ở Việt Nam, bài viết sẽ tìm hiểu tình hình
thực tiễn và quan điểm về cách tiếp cận mới trong đổi mới đào tạo giáo viên ở một số
hệ thống giáo dục tại các châu lục Bắc Mỹ, Úc, Âu và Á, phân tích các thành công và
thất bại của chúng để tìm giải pháp thích hợp cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
13 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 18/05/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Cách tiếp cận mới về đổi mới mô hình đào tạo giáo viên một số kinh nghiệm quốc tế và thực trạng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huẩn tối thiểu. Chương trình tài trợ dựa trên hiệu suất có thể được
thiết kế để cấp tài trợ cho các chương trình cho thấy các cải tiến lớn nhất trong kết quả đầu
ra giáo viên tốt nghiệp đại học. Tập trung trực tiếp vào kết quả đầu ra (ví dụ: hiệu suất giáo
viên mới vào nghề) có nhiều khả năng có hiệu quả hơn là tập trung vào yếu tố đầu vào (ví
dụ: số lượng môn học yêu cầu).
4. Các giải pháp lựa chọn cải cách: Đổi mới lộ trình đào tạo giáo viên
Giáo viên mới vào nghề trải qua 6 khâu khác nhau trên lộ trình này, kể từ khi vào học
SP cho đến lúc đi làm. Ở hầu hết các hệ thống việc can thiệp chính sách đều nhắm 6 điểm
khác nhau của lộ trình từ tuyển sinh SP đến năm đầu đi dạy phổ thông. Những điểm này
giúp cho nhà hoạch định chính sách tạo ra bộ lọc đánh giá giáo viên mới vào nghề. Như đã
nói ở trên con đường ĐTGV phải được xem như một hệ thống hoàn chỉnh chứ không phải là
518 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
các khâu riêng biệt. Kỳ thi tuyển sinh khó sẽ dẫn đến tỷ lệ thất bại cao trong số học sinh tốt
nghiệp từ các khóa học phổ thông chất lượng thấp, cung cấp động lực cải thiện các chương
trình nhằm đảm bảo việc dạy học sinh được chuẩn bị tốt hơn. Ngược lại, thiết lập chuẩn
tuyển sinh cao vào SP chỉ hoạt động để sàng lọc thí sinh chứ không cải thiện chất lượng
chương trình đào tạo. Các giải pháp lựa chọn cải cách ở mỗi bước là:
4.1. Lựa chọn tuyển vào chương trình đào tạo giáo viên
Nâng cao chuẩn nhập học chỉ hấp dẫn về mặt chính trị vì tính đơn giản của nó. Mặc
dù khả năng học tập là quan trọng, việc tập trung vào điểm số đầu vào tối thiểu ngành SP
không giải quyết được những gì xảy ra sau khi nhập học, cụ thể là chất lượng đào tạo. Hơn
nữa, các cách làm này có thể tác động tiêu cực với thông điệp cho rằng tất cả vấn đề tồn tại
là do chất lượng thí sinh chứ không phải do chất lượng khóa học. Nâng cao chuẩn nhập học
cũng tác động đến tính đa dạng của nghề dạy học. Học sinh từ các hoàn cảnh kinh tế xã hội
đa dạng và thấp bị ảnh hưởng không cân xứng bởi các điểm cắt giảm nhập học do họ đạt
điểm trung bình thấp hơn. Những người này có thể bị loại khỏi nghề dạy học mặc dù họ có
thể phát triển các kỹ năng cần thiết trong quá trình ĐTGV của họ.
Vấn đề thu hút, hấp dẫn của ngành sư phạm: Chuẩn nhập học chỉ là hình thức tuyển sinh,
nhưng việc tự lựa chọn ngành SP lại là đòn bẩy mạnh mẽ khác. Nếu dạy học trở thành nghề
thực sự được tôn trọng sẽ cho phép hút sinh viên giỏi vào học SP. Nhiều hệ thống hiệu suất cao
có yêu cầu tuyển đầu vào SP cao cũng làm cho việc dạy học trở thành nghề rất hấp dẫn. Nhưng
việc trả lương cao cho ngành sư phạm là yếu tố tốt. Tại Nhật Bản, cơ sở ĐTGV quy định xét
nhập học là phải hoàn thành chương trình phổ thông trung học và xem xét điểm số học bạ. Có
thể cũng nhập học dựa trên điểm trắc nghiệm do Trung tâm Quốc gia Tuyển sinh đại học hay
kỳ thi tuyển sinh của từng trường tổ chức. Ở Ba Lan, các yêu cầu tối thiểu để vào học sư phạm
là phải hoàn thành chương trình phổ thông trung học. Tuy nhiên, cơ sở ĐTGV được phép đặt
riêng trọng số cho các đối tượng cụ thể. Ở Phần Lan cơ sở ĐTGV cũng thiết lập yêu cầu riêng
cho nhập học. Dạy học ở Phần Lan là nghề hấp dẫn rất cao (chỉ có 1/10 thí sinh thường được
trúng tuyển ngành giáo dục tiểu học và tỷ lệ 1/4 vào học sư phạm nói chung). Đối với giáo dục
tiểu học có hai giai đoạn tuyển vào ĐTGV. Đầu tiên thu hẹp lượng thí sinh dựa trên kết quả thi
trúng tuyển cũng như các thành tích ngoài trường và điểm học bạ trung học. Vòng xét thứ hai
thường liên quan đến cuộc phỏng vấn, bài kiểm tra viết về sư phạm và quan sát lâm sàng tình
huống nhân rộng kịch bản lớp học. Trọng số yêu cầu là do từng trường ấn định.
Chỉ tiêu tuyển sinh sư phạm là giải pháp tiếp cận mang tính mục tiêu hơn là tăng chuẩn
tuyển sinh và có thể tránh nguy cơ gây ra thiếu hụt. Tuy nhiên, để có hiệu quả chỉ tiêu phải
liên tục điều chỉnh theo nhu cầu về các loại giáo viên khác nhau, đòi hỏi dữ liệu lập kế hoạch
nơi làm việc, mà không phải luôn có sẵn.
4.2. Đầu ra của đào tạo giáo viên
Chuẩn đầu ra là cách hữu ích để tập trung chú ý vào chất lượng tốt nghiệp thay vì chất
lượng đầu vào nhập học, nhưng chuẩn đầu ra cũng gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng của
519Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...
ứng viên SP. Không có trường đại học nào muốn tỷ lệ trượt tốt nghiệp cao vì vậy họ khuyến
khích tiếp nhận những ứng viên có tiềm năng đáp ứng chuẩn đầu ra. Tất cả các quốc gia đều
có chuẩn đầu ra tốt nghiệp ĐTGV. Tuy nhiên, những điều này thường do cấp độ cơ sở đào
tạo đặt ra chứ không phải ở cấp chính quyền trưng ương hay địa phương.
4.3. Tuyển dụng giáo viên
Hầu hết các hiệu trưởng đều đồng ý rằng tuyển giáo viên là quyết định quan trọng
nhất của họ. Nghiên cứu gợi ý rằng việc sơ tuyển ban đầu là rất quan trọng trong việc kết
hợp giáo viên giỏi nhất với nhu cầu học sinh cần thiết nhất. Nhiều thảo luận về giáo dục tập
trung thu hút ứng viên tốt hơn vào nghề sư phạm nhưng có bằng chứng liên quan rằng ngay
cả khi ứng viên chất lượng cao quyết định trở thành một giáo viên, họ không có khả năng
được tuyển dụng nhiều hơn so với ứng viên chất lượng thấp hơn. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng
nhiều trường học, ứng viên nộp đơn từ các chương trình ĐTGV tốt hơn thậm chí có thể tồi tệ
hơn trong thị trường việc làm so với các ứng viên khác. Điều này trái ngược với các ngành nghề
khác như ngành luật nơi sinh viên tốt nghiệp chọn lựa các chương trình có nhiều khả năng để
có được một công việc và được trả lương tốt hơn.
5. Kết luận
Mục tiêu của chúng ta là cải thiện việc học của học sinh bằng cách cải tiến nâng cao
công tác ĐTGV ở bậc đại học. Để có sự thay đổi đáng kể, trước hết phải nhận thấy rằng
ĐTGV không phải là chuỗi các sự kiện biệt lập. Mà thay vào đó, công tác ĐTGV diễn ra theo
một con đường mang lại sự khác biệt của các khâu gắn kết với nhau như một hệ thống. Các
hành động được thực hiện ở cuối lộ trình có khi lại ảnh hưởng đến các quyết định được đưa
ra tại điểm bắt đầu ĐTGV, cũng như chất lượng của các khâu trước của lộ trình này. Hiểu
được điều này là rất quan trọng để suy nghĩ toàn diện về chính sách can thiệp phù hợp.
Tăng cường kiểm soát nhà cung cấp ĐTGV để đảm bảo chương trình được thiết kế
tốt và ứng viên phải vượt qua yêu cầu tốt nghiệp nghiêm ngặt. Việc cải tiến chất lượng đào
tạo được đảm bảo thông qua tăng cường liên kết giữa trường đại học và trường phổ thông.
Nếu hệ thống có chuẩn tối thiểu cao về cấu trúc chương trình ĐTGV và hành động để
khép lại các chương trình đào tạo chất lượng thấp, và nếu hệ thống không thể tăng cường
kiểm tra chất lượng tại các khâu đăng ký hành nghề giáo viên và việc làm, thì việc mở rộng
giám sát thiết kế khóa ĐTGV là cách tốt nhất cải thiện công tác ĐTGV.
Không có kiểm soát chất lượng chặt chẽ các chương trình ĐTGV, các khóa học chất
lượng kém sẽ sinh sôi nảy nở, với các ưu đãi trong hệ thống thu hút để dạy nhiều sinh viên
hơn bằng cách cung cấp văn bằng có chi phí thấp hoặc tốt nghiệp với chuẩn dễ dàng hơn.
Chúng ta cần phân biệt chất lượng ĐTGV để sinh viên tốt nghiệp tốt hơn có triển vọng nghề
nghiệp tốt hơn. Các chương trình ĐTGV tạo ra nhiều việc làm nhất cho sinh viên tốt nghiệp
sẽ tạo ra động lực cho chương trình đào tạo và ứng viên nghề SP để thực hiện quyết định
dựa trên chất lượng chứ không phải chi phí.
520 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ NHẤT VỀ ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
Thắt chặt các chuẩn đăng ký nghề nhà giáo và việc làm đã được chứng minh là một
thách thức. Bất kỳ chính sách nào cũng nên tập trung vào việc tạo ra sự đánh giá nghiêm
ngặt tại một hoặc nhiều điểm quan trọng trong lộ trình ĐTGV. Việc lượng giá và đánh giá
luôn là nỗ lực chính trị nhằm cải thiện ĐTGV nên luôn gắn liền với mục tiêu bao trùm: đào
tạo giáo viên mới vào nghề tốt hơn sẽ là để nâng cao việc học của học sinh phổ thông.
Công tác ĐTGV ở Việt Nam hơn lúc nào hết đang rất trăn trở với mô hình đổi mới đào
tạo. Sắp xếp lại các cơ sở đào tạo sư phạm theo xu hướng trường trọng điểm vẫn theo mô
hình khép kín đào tạo giáo viên truyền thống trong trường sư phạm (đào tạo song song),
hay xây dựng các trường đa lĩnh vực để đổi mới theo mô hình đào tạo nối tiếp? Dù nhà nước
chọn theo hướng nào đi nữa, thì việc cải tiến chương trình ĐTGV theo hướng gắn kết cơ sở
cung ứng ĐTGV bậc đại học với các trường phổ thông là đòi hỏi hêt sức cần thiết. Trên cơ sở
thông tin phản hồi về chất lượng giáo viên dạy ở trường phổ thông để kịp thời điều chỉnh
chương trình đào tạo. Đây là đòi hỏi cấp thiết mà ở Việt Nam chưa bao giờ đặt ra.
Một đòi hỏi nữa là phải gắn liền nhu cầu giữa hai loại thị trường: Thị trường đào tạo
sinh viên sư phạm với thị trường sử dụng sinh viên tốt nghiệp sư phạm. Đây là đòi hỏi cấp
bách của đổi mới ĐTGV trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Chính
phủ các cấp, lãnh đạo các trường phổ thông công lập là chủ sử dụng chính lực lượng giáo
viên mới ra trường.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Đề án sắp xếp, tổ chức lại các trường sư phạm và thành
lập một số trường sư phạm trọng điểm,- Bộ Giáo dục và Đào tạo- Dự thảo- 30-6-2019;
2. Hiệp hội kiến nghị Thủ tướng về củng cố, phát triển các cơ sở đào tạo giáo viên.
Giaoduc.net.vn, ngay 9/9/2019;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 39/NQ-TW và Kết luận số 17-KL/TW của Bộ
Chính trị về tinh giản biên chế 10% giáo viên đến 2021;
4. Learning First – A new Approach: Reforming teacher education, March 2015;
5. Greenberg, J., Walsh, K., & McKee, A. (2014), 2014Teacher Prep Review: A Review of the
Nation’s Teacher Preparation Programs. Washington D.C.:National Council on Teacher
Quality. Retrieved March 4, 2015, from
6. Teacher Education Ministerial Advisory Group (2014), Action Now: Classroom
ReadyTeachers. https://docs.education.gov.au/system/files/doc/other/action_now
7. classroom_ready_teachers_print.pdf.
8. (Re)definning the new genenal education teacher IN Phillipnne Higher Education- Dr.
Chih-Cheng Hung, Master in Educational Leadership andManagement Development
[2015]National Chung Cheng University.
521Phần 3: TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC...
DISCUSSION: “NEW APPROACH TO INNOVATION OF THE MODEL
OF TEACHER TRAINING: SOME INTERNATIONAL EXPERIENCES
AND SITUATION IN VIETNAM”
Dr. Mai Van Tinh1
Dr. Nguyen Dac Hung2
Abstract
Increasing the effectiveness of teachers is the key to improve school education,
most of the systems in around the world have only recently focused their efforts
on transforming initial teacher education. The ways in which candidates are
prepared to be teachers have a critical influence on what teachers can do and what
their students learn. Yet very few countries have an effective system for educating
teachers. Many coaching programs are very unrealistic, almost all are looking for
the best way to stay ahead.
Based on the situation of ineffective teacher training in Vietnam, the urgent task of
breaking the restructuring of teacher training system, the article wants to analyze the
practical situation and perspectives on how to continue. New approach to teacher
training innovation in high-performance education systems, analyzing their successes
and failures to find appropriate solutions for Vietnam in the current period.
Keywords: New approach to reforming teacher education; Teacher education parthway;
Teacher training suppliers; Teacher employer; Mmarket in teacher education; Market in
using graduate from teacher education.
1 Association of Vietnam Universities and Colleges; Email: mvtinh@gmail.com.
2 Central Propaganda Department of the Communist Party of Vietnam; Email: ndhung.tgtw@
gmail.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cach_tiep_can_moi_ve_doi_moi_mo_hinh_dao_tao_giao_vien_mot_s.pdf