Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại nhiều cơ hội và không ít thách thức cho giáo dục
Việt Nam hiện nay. Hiểu được tầm quan trọng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vận dụng sáng
tạo vào tình hình giáo dục Việt Nam là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Bài viết
trình bày những đặc trưng cơ bản của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với sứ mệnh giáo dục; từ
đó đưa ra bốn vấn đề then chốt phát triển giáo dục Việt: kiến tạo nhà trường, xây dựng hệ thống giáo
dục, xác định hệ giá trị và tổ chức rèn luyện cho thế hệ trẻ, đào tạo và bồi dưỡng hiệu trưởng.
8 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 13/05/2022 | Lượt xem: 402 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra cho trí việt cho giáo dục Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ nhĩa Mác-Lênin là phải sống
với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi
là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin”. Như vậy, đối với
Bác Hồ thì “Minh triết Mác-Lênin” là “Sống có
tình nghĩa”.
Nhà văn hóa Đào Duy Anh tựa vào một ý thơ
của tiền nhân: “Thế gian vạn sự giai bào ảnh - Thiên
kiếp duy dư nhất điểm tình” đã cảm thán trong lời
ý “Nhớ nghĩ chiều hôm” - “Xem ra hết thảy đều
mây nổi; Còn với non sông, một chữ tình”.
2.2.4. Đào tạo, bồi dưỡng hiệu trưởng các
nhà trường có phong cách quản lý của nhạc trưởng
Từ năm 1976, ở nước ta ra đời hệ thống đào
tạo và bồi dưỡng hiệu trưởng với nhận thức: Họ là
các “sĩ quan” của ngành. Có “sĩ quan” giỏi, có nhà
trường tốt, có sản phẩm giáo dục tốt. Nhiều thế hệ
hiệu trưởng của đất nước để làm việc theo phương
châm: “Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ” (Thông điệp
của Xukhôlomoski - nhà giáo dục học Xô Viết khả
kính”. Ngày nay trong cuộc đổi mới, họ phấn đấu
không chỉ là người lãnh đạo bao quát, yêu quý đổi
mới, còn là người quản trị tỉ mỉ đối với quá trình
giáo dục.
John Vũ có nói tới phong cách hiệu trưởng
trong cách mạng CMCN 4.0/thời đại tri thức phải
là “Nhạc trưởng”. Ông thuật lại trong một bữa ăn
trưa, ông đã được nghe một vị nhạc trưởng tài ba
tâm sự: “Nhạc trưởng là người duy nhất trong dàn
nhạc mà không tạo ra âm thanh Nhạc trưởng
không phải là người chứng tỏ tính sáng tạo của
mình qua nhạc cụ mà họ bị phán xét bởi khả năng
tạo ra môi trường mà trong đó các tài năng của nhạc
công có thể nổi lên và chất lượng của buổi diễn có
thể được thính giả trải nghiệm”.
Người bạn của John Vũ có sự liên hệ: “Nhạc
trưởng không khác với hiệu trưởng nhà trường”.
“Hiệu trưởng bị phán xét bởi khả năng tạo ra môi
trường học tập, trong đó tài năng của các giáo viên
nổi lên và chất lượng việc dạy của họ có thể cải tiến
năng lực học tập của người học”.
John Vũ chia sẻ cảm nghĩ: “Dàn nhạc có một
nhạc trưởng và nhiều nhạc công. Nhạc trưởng là
người lãnh đạo và nhạc công là người quản lý, họ
quản lý nhạc cụ riêng để chơi nhạc. Trường học có
một hiệu trưởng và nhiều giáo viên.
Hiệu trưởng là người lãnh đạo và giáo viên
là người quản lý lớp học riêng của họ. Lãnh đạo
và quản lý không như nhau nhưng lại được liên
kết và bổ sung cho nhau. Việc của nhạc công là
trình diễn năng lực nghệ sĩ tốt nhất của họ, giáo
viên cần tổ chức lớp theo khả năng chuyên môn
tốt nhất của họ. Việc của nhạc trưởng là truyền
cảm hứng và động viên. Việc của hiệu trưởng
cũng là truyền cảm hứng và động viên Hiệu
trưởng có nhiệm vụ phát triển, cung cấp viễn
kiến cho trường học. Hiệu trưởng giống như nhạc
trưởng” [3, tr. 251].
Trước John Vũ, Peter Drucker - nhà quản lý
thực tiễn tài ba có nói đến ba phong cách quản lý
trong bối cảnh hiện đại: Phong cách nhạc trưởng;
Phong cách chỉ huy quân đội; Phong cách huấn
luyện viên bóng đá (những trận đi tranh giải).
37
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
Tiếp thu lời khuyên của Peter Drucker, một
hiệu trưởng trường đại học có nhiều thành công đã
thuật lại kinh nghiệm của bản thân: Điều hành giảng
viên dùng phong cách nhạc trưởng; Điều hành sinh
viên dùng phong cách chỉ huy quân đội; Điều hành
cán bộ phòng ban dùng phong cách huấn luyện viên
bóng đá (những trận đi tranh giải).
Người hiệu trưởng ngày nay vô luận lãnh
đạo nhà trường loại hình nào cũng phải hài hòa
ba năng lực:
+ Năng lực công việc: Chọn việc đúng mà
làm, làm khéo việc đã chọn;
+ Năng lực quan hệ với con người: Đưa đối
thủ thành đối tác; Đưa đối tác thành đồng minh;
Đưa đồng minh thành đồng chí; Đưa đồng chí
thành tri ân.
+ Năng lực tư duy phản biện.
2.3. “Vượt gộp” trong “đổi mới” để giáo dục
thành công trong CMCN 4.0/ thời đại tri thức
Trong tiến trình phát triển, giáo dục Việt
Nam luôn đi tìm sự canh tân để nhập bước với
thời đại. “Vượt gộp” được đặt ra như một yêu
cầu trong mỗi lần canh tân. “Vượt gộp” có nghĩa
là tiếp thu cái mới nhưng đổi mới được nó trên
cơ sở một cái cũ cũng đã được đổi mới cho thích
hợp với hoàn cảnh mới. Nó có nghĩa là bảo vệ
được cái cũ lẫn cái mới sao cho thích hợp với sự
đổi mới cần phải tiến hành. Như vậy “Vượt gộp”
không phải là nhắm mắt chạy theo cái mới, vứt
bỏ cái cũ, cũng không phải là khư khư giữ lấy cái
cũ, từ bỏ cái mới” [4, tr. 31].
Trong thế kỷ XX, giáo dục đất nước đã có 3
lần “vượt gộp” để lại kết quả ấn tượng:
Lần 1, Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) là sự
vượt gộp “Nhà trường bút sắt” buổi sơ khai du
nhập vào Việt Nam với “Nhà trường bút lông” đã
có từ ngàn năm tạo nên mô hình giáo dục thực học,
thực nghiệp. Đông Kinh Nghĩa Thục tuy chỉ tồn
tại 9 tháng, nhưng là cuộc cách mạng âm thầm để
lại nhiều bài học quý giá cho sự phát triển giáo dục
và còn ý nghĩa đến ngày nay.
Lần 2, Nhà trường Việt Nam theo chương trình
Hoàng Xuân Hãn, từ 3/1945 cho đến thập niên 50
của thế kỷ XX là sự vượt gộp “Nhà trường duy
lý” của phương Tây với nhà trường đại chúng có
từ phong trào truyền bá Quốc ngữ (1938) tạo nên
nền giáo dục có triết lý phát triển: Dân tộc/ Khoa
học/ Đại chúng. Sau này được chuyển thành: Dân
tộc - Dân chủ - Khoa học.
Lần 3, Mô hình Trường Bắc Lý (từ 1960 nối
tiếp đến cải cách giáo dục lần thứ ba 1979) là sự
vượt gộp nhà trường lao động của Marx với nhà
trường Việt Nam thời kháng chiến tạo nên nhà
trường phổ thông lao động kỹ thuật tổng hợp, đào
tạo thế hệ trẻ có nhân cách đóng góp xứng đáng
vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước.
Ngày nay trong tiến trình thực hiện đổi mới
giáo dục theo tinh thần NQ 29/TW khóa XI tại các
địa phương, các nhà trường vẫn âm thầm diễn ra
sự “vượt gộp” với tinh thần Tam hóa.
- Hiện đại hóa tinh hoa giáo dục của tiền nhân.
- Việt Nam hóa giá trị giáo dục tiên tiến của
thời đại: Giá trị giáo dục ASEAN; Giá trị giáo
dục từ các nước phát triển; Giá trị giáo dục từ
UNESCO.
- Lành mạnh hóa đời sống giáo dục để: Trường
ra trường - Lớp ra lớp; Thầy ra thầy - Trò ra trò;
Dạy ra dạy - Học ra học.
Ở Hà Nội, Trường Phổ thông trung học Đinh
Tiên Hoàng thực hiện triết lý phát triển:
“Đ”: Đổi mới căn bản và toàn diện quá trình
giáo dục chuyển từ truyền thụ tri thức sang phát
triển toàn diện phẩm chất năng lực cho thế hệ trẻ;
“T”: Thầy tự trọng - Trò tự lực;
“H”: Toàn trường “Ham học - Ham làm - Ham
tiến bộ”.
Ở Bình Dương, Trường Đại học Bình Dương
thực hiện triết lý 4H: Học - Hỏi - Hiểu - Hành. Đó
là lời Bác Hồ dạy năm 1949 khi Bác đến dự khai
giảng trường Nguyễn Ái Quốc; Thầy - Trò từ “4H”
phấn đấu xây dựng nhà trường thành tổ chức biết
học hỏi (learning organization).
3. Kết luận
Năm 2007, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
người mà Giáo sư Phạm Minh Hạc tôn vinh: Nhà
giáo - tướng quân rồi vị tướng làm giáo dục, trong
38
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 42 (02-2020)
một luận văn tâm huyết cho đổi mới giáo dục đã
nêu lên sự kỳ vọng các nhà trường Việt Nam đào
tạo lớp người có: “Tư duy độc lập, có phương pháp
tư duy hệ thống và cái nhìn toàn thể, có năng lực
sáng tạo và tinh thần đổi mới, có khả năng thích
ứng với sự thay đổi thường xuyên, đa dạng, phức
tạp đầy biến động bất ngờ và bất định, có năng
lực hành động hiệu quả và tinh thần hợp tác trong
một môi trường đa văn hóa của một thế giới toàn
cầu hóa” [5].
Giáo dục Việt Nam chỉ thành công trong
CMCN 4.0/ thời đại tri thức nếu quán triệt điều
di huấn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu
ở trên./.
Tài liệu tham khảo
[1]. Đặng Quốc Bảo, Phạm Minh Giản (2019), Dòng chảy giáo dục Việt từ truyền thống đến hiện
đại: ghi chép -liên tưởng- thu hoạch, NXB Thông tin và Truyền thông.
[2]. Bài nói chuyện của Phó Giáo sư Lê Kim Long - Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục - Đại
học Quốc gia Hà Nội cho giáo viên trường Olympia ngày 7/3/2017.
[3]. John Vũ (2016), Giáo dục trong thời đại tri thức, NXB Lao động, Hà Nội.
[4]. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội.
[5]. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề giáo dục hiện nay: quan điểm và giải pháp, NXB Tri thức,
Hà Nội.
[6]. Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam (2016), Hệ giá trị - mục tiêu phát triển nhân cách người
học của hệ thống giáo dục, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
THE 4.0 INDUSTRIAL REVOLUTION AND ITS CHALLENGES
TO VIET MIND AND EDUCATION
Abstract
The 4.0 Industrial Revolution has brought both opportunities and challenges to Vietnam’s
education. Hence, understanding and applying creatively its best practices to the current situation
of Vietnam’s education is the present concern among many researchers. This article aims to present
specifi cally fundamental features of this revolution relating to the missions of the nation’s education;
thence to propose four crucial solutions to developing Vietnam’s education, namely renovating schools,
constructing educational system, identifying value system, training young generation, training and
retraining school principals.
Keywords: The 4.0 Industrial Revolution, Vietnam’s education, Viet Mind.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cach_mang_cong_nghiep_lan_thu_tu_va_nhung_van_de_dat_ra_cho.pdf