Các quốc gia cạnh tranh như thế nào?

Rất khó để rút ra một kết luận chung vì hoàn cảnh của mỗi nước là rất khác nhau nhưng tôi có thể nêu ra 10 yếu tố nên được áp dụng trong chính sách. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng để đạt được hiệu quả thì những chính sách cần phải đồng nhất với nhau về mặt chiến lược.

Để có thêm góc nhìn về vai trò nhà nước, vai trò các chính phủ trong thời đại toàn cầu hoá cũng là có thêm cơ sở tư duy về triết lý phát triển cho Việt Nam, với khát vọng đưa đất nước ta, dân tộc ta thoát khỏi cảnh một nước chậm phát triển, sánh vai cùng bè bạn năm châu. Tôi xin giới thiệu một số phần trong cuốn sách để bạn đọc VietNamNet tham khảo và tranh luận.

 

doc11 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1011 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Các quốc gia cạnh tranh như thế nào?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các quốc gia cạnh tranh như thế nào? Rất khó để rút ra một kết luận chung vì hoàn cảnh của mỗi nước là rất khác nhau nhưng tôi có thể nêu ra 10 yếu tố nên được áp dụng trong chính sách. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng để đạt được hiệu quả thì những chính sách cần phải đồng nhất với nhau về mặt chiến lược. Để có thêm góc nhìn về vai trò nhà nước, vai trò các chính phủ trong thời đại toàn cầu hoá cũng là có thêm cơ sở tư duy về triết lý phát triển cho Việt Nam, với khát vọng đưa đất nước ta, dân tộc ta thoát khỏi cảnh một nước chậm phát triển, sánh vai cùng bè bạn năm châu. Tôi xin giới thiệu một số phần trong cuốn sách để bạn đọc VietNamNet tham khảo và tranh luận. Các quỹ đạo toàn cầu hoá GS. Richard H. K. Vietor Trường kinh doanh Harvard vừa giới thiệu cuốn sách: ”Các quốc gia cạnh tranh như thế nào?” - Chiến lược, Cấu trúc và Chính phủ trong kinh tế toàn cầu. Nhờ toàn cầu hoá, các nước hiện nay cạnh tranh để phát triển. Điều này có thể thấy rõ từ nghiên cứu của chúng tôi ở 10 quốc gia hiện nắm giữ ba phần tư giá trị kinh tế thế giới. Những nước này cạnh tranh với nhau để giành thị trường xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Họ cạnh tranh trong lĩnh vực giáo dục, sản xuất và quốc phòng. Thành công toàn diện là nền tảng cho phát triển và thịnh vượng. Trước Chiến tranh Thế giới thứ 2, phát triển riêng từng nước phổ biến và dễ dàng hơn. Nhưng hiện nay, trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới, cạnh tranh giữa các quốc gia đã trở thành một xu hướng phổ biến. Và trong cạnh tranh toàn cầu, chính phủ đóng vai trò quyết định. Chính phủ không chỉ thực thi chính sách tài chính và tài khoá mà còn thiết lập và củng cố các định chế hỗ trợ cho phát triển. Chính sách thương mại, khuyến khích tiết kiệm, môi trường tài chính có lợi cho đầu tư, quản lý doanh nghiệp, phân phối thu nhập công bằng, xoá sổ tội phạm và chấm dứt tham nhũng chỉ là một vài định chế chính phủ trung ương thiết lập và duy trì. Kết hợp các chính sách này lại với nhau sẽ tạo ra chiến lược quốc gia và kết hợp những định chế sẽ tạo ra cơ cấu tổ chức cần thiết. Theo đuổi chiến lược quốc gia bằng tổ chức nhà nước có thể tạo bước phát triển đột biến nhưng cũng có thể dìm quốc gia đó trong nhóm kém phát triển. Bốn nhân tố cho phát triển kinh tế thành công là: (1) chiến lược quốc gia, (2) cơ cấu kinh tế, (3) phát triển nguồn lực, và (4) sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Chiến lược, dù công khai hoặc không công khai, cũng đều chứa các yếu tố kinh tế vi vô và kinh tế vĩ mô. Cơ cấu tổ chức là tập hợp các định chế (cả theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp) mà một chính sách quốc gia được tạo ra để thực thi chiến lược của quốc gia đó. Cả chiến luợc và cơ cấu phải phát triển được các nguồn lực (nguồn lực tự nhiên, con người, công nghệ và vốn) và chọn phương thức đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực này. Từ 10 quốc gia chúng tôi nghiên cứu, có thể thấy có rất nhiều sự lựa chọn phương thức khác nhau. Một số nước có sự thành công diệu kì như Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Một số lại trải qua những thăng trầm trong phát triển như Mê-hi-cô, Nam Phi, Ấn Độ và Italia. Một số khác lại gặp phải thất bại trong khoảng năm 2000 khi mà có trong tay cả sự thịnh vượng cũng như cải cách thể chế, Nga và Ả-rập Xê-út là minh chứng. Vai trò không thể thiếu của Chính phủ Rất khó để rút ra một kết luận chung vì hoàn cảnh của mỗi nước là rất khác nhau nhưng tôi có thể nêu ra 10 yếu tố nên được áp dụng trong chính sách. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng để đạt được hiệu quả thì những chính sách cần phải đồng nhất với nhau về mặt chiến lược. Thứ nhất là các quyền sở hữu tài sản cơ bản. Những quyền này là rất quan trọng. Nếu quốc gia nào không bảo vệ được quyền sở hữu tài sản cá nhân và quyền trao đổi những tài sản này thì sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện tại sẽ bị ảnh hưởng. Điển hình là Trung Quốc trước năm 1983 và Nga trong những năm 1990. Thị trường không thể phát triển được do những nước này không đảm bảo được quyền sở hữu tài sản, không có khung pháp lý hợp hiến những khế ước khả thi. Thị trường chỉ phát triển và góp phần thúc đẩy tăng trưởng trong khuôn khổ pháp lý được đảm bảo do nhà nước đề ra. Thứ hai là sự cần thiết phải có những chính sách kinh tế vĩ mô mềm dẻo. Trong đó, trước tiên là phải có những chính sách tài khoá đáng tin cậy. Từ 10 quốc gia mà chúng tôi nghiên cứu và dựa vào lịch sử các nền kinh tế khác cho thấy thâm hụt tài khoá sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự phát triển quốc gia đó. Chẳng hạn, thâm hụt tài khoá dẫn đến khủng hoảng nợ ở Mê-hi-cô, Ấn Độ và Nga, hay sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc. Còn ở Italia, Nhật Bản và Hoa Kỳ chúng tôi thấy nợ đọng kéo theo những nguy cơ đối với sự phát triển bền vững. GS. Richard H. K. Vietor cùng 2 học viên Trường Kinh doanh Harvard. Chắc chắn, những kịch bản về đình trệ hoặc khủng hoảng kinh tế do thâm hụt chi tiêu của chính phủ gây ra. Thâm hụt ngân sách vừa phải có thể kích thích tiêu dùng và/hoặc đầu tư cho đến khi nền kinh tế có thể tự lực được. (Xem sơ đồ tăng trưởng của Hoa Kỳ kể từ năm 2002). Do vậy, các nước vẫn cho phép thâm hụt ngân sách và tăng dần về lượng, nhưng tất nhiên sự thâm hụt này phải được bù đắp. Nếu phát hành thêm tiền sẽ gây ra lạm phát, còn nếu không sẽ phải tăng lãi suất, gạt đầu tư tư nhân trong nước ra khỏi nền kinh tế và tăng nợ nước ngoài. Về dài hạn, chi tiêu vượt mức chính phủ giống như chi tiêu vượt mức trong gia đình. Thứ ba là tầm quan trọng của tiết kiệm và đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế. Những nước có nhiều tiết kiệm và đầu tư hơn là những nước phát triển hơn, như Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Mê-hi-cô và Nam Phi. Những nước không đầu tư cho nguồn nhân lực và vốn hữu hình thì không thể cạnh tranh lâu dài được. Hiện Mê-hi-cô, Ấn Độ, Nam Phi và Ả rập Xê-út vẫn duy trì mức đầu tư tư nhân ở mức thấp - chỉ khoảng một nửa của Singapore và Trung Quốc - sớm muộn gì những tính toán nhất thời này sẽ làm mất năng lực cạnh tranh của họ. Có chính sách, thể chế, những động cơ và xu hướng văn hoá khuyến khích tiết kiệm là vô cùng quan trọng. Quỹ Dự phòng Trung ương Singapore là một điển hình mà Hoa Kỳ và Nam Phi nên áp dụng. Đương nhiên là có thể thu hút tiết kiệm nước ngoài để gây quỹ đầu tư như Hoa Kỳ đã thực hiện trong suốt hai thập niên qua. Nhưng về dài hạn, tiết kiệm trong nước vẫn tốt hơn là tiết kiệm nước ngoài bởi nhiều lý do. Việc thanh toán nợ ảnh hưởng rất lớn đến nội tệ và ít nhiều liên quan đến tỷ giá hối đoái. Một nước phải bán tài sản của mình cho nước ngoài để lấy tiền tiết kiệm thì thế hệ sau của đất nước đó phải gánh chịu sự mất mát về tài sản. Đây cũng là vấn đề nan giải mà Hoa Kỳ đang phải đối mặt. Tiêu dùng thoả mãn nhu cầu hiện tại và tiết kiệm đảm bảo nhu cầu tương lai. Sự cân bằng giữa hai yếu tố này thiết yếu với bất kỳ xã hội nào. Năm 2006, Hoa Kỳ, Me-hi-cô và Nam Phi đã không đảm bảo được sự cân bằng này. Cái giá của tiêu dùng quá mức không thể hiện ra ngay nhưng chúng sẽ tự lộ ra trong tương lai. Trước khi quá muộn, những nước này cần phải điều chỉnh lại nhằm tăng tiết kiệm nếu như họ muốn cạnh tranh được với những nước đã làm được điều này. Thứ tư là vai trò cần thiết của ngân hàng trung ương mạnh (nhưng không nhất thiết là phải độc lập) đối với tăng trưởng không lạm phát. Những nước như Singapore, Nhật Bản, Mỹ và Châu Âu và gần đây là Mê-hi-cô, Ấn Độ, và Nam Phi đã làm được điều này. Các ngân hàng trung ương cần phải đảm bảo khả năng thanh khoản cho tăng trưởng nhưng nếu không phù hợp sẽ làm giá cả tăng vọt. Ngày nay, đặc biệt là trong nền kinh tế toàn cầu, lạm phát là thảm hoạ. Nó làm lãi suất tăng cao và làm yếu đồng tiền bản tệ. Đó là lý do tại sao các ngân hàng trung ương ngày càng hướng vào các mục tiêu lạm phát hoặc tối thiểu cũng quan tâm đặc biệt đến lạm phát. Thứ năm là tầm quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô linh hoạt. Đối với tất cả các quốc gia, chúng tôi thấy rằng tự do hoá đôi khi rất cần thiết để thúc đẩy phát triển. (Tự do hoá, theo tôi, có nghĩa là xoá bỏ các rào cản đối với thương mại và đầu tư nước ngoài, một chính sách tỷ giá ngoại hối theo quy luật thị trường và tư nhân hoá tất cả những tài sản có khả năng cạnh tranh). Chắc chắn những rào cản có thể sẽ (hoặc đã) có ích tại một thời điểm nào đó. Chúng tôi tìm ra những điều đó ở Nhật Bản, Trung Quốc và thậm chí Italia. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, khi kinh tế quốc gia phát triển và kinh tế toàn cầu phát triển thì những hạn chế kinh tế vi mô bóp méo sự tăng trưởng và cần phải được giải quyết. Trung Quốc, Italia và Nga hiện đang giải quyết vấn đề này. Ả-rập Xê-út và các nước phương Tây cũng nên nhanh chóng giải quyết vấn đề này. Thứ sáu là sự linh động của thị trường lao động. Hoa Kỳ có một thị trường lao động khá linh động - hầu như không có một quy định nào hạn chế tuyển dụng và sa thải, lương tối thiểu thấp, mức bảo hiểm thất nghiệp khá thấp (khoảng 6 tháng). Đây là một trong những thế mạnh lớn nhất của Hoa Kỳ. Tương tự, Trung Quốc và Singapore cũng có thị trường lao động linh hoạt - Trung Quốc ít có quy định bảo vệ lao động còn Singapore có tổ chức công đoàn không mạnh. Nhưng ở Mê-hi-cô, Nam Phi, Ấn Độ và Châu Âu chúng tôi thấy luật lao động rất chặt chẽ và những quy định cứng nhắc về thị trường lao động làm giảm năng suất, cản trở các doanh nghiệp thay đổi cơ cấu, và kéo đơn giá lao động. Đặc biệt ở Italia, nơi nào mà năng suất lao động cao thì thị trường lao động không hiệu quả đòi hỏi những khoản chi tiêu lớn của chính phủ và khiến sự điều chỉnh cơ cấu gặp khó khăn. Tương tự như ở Nhật Bản, chúng tôi thấy những quy định về văn hoá và xã hội cũng có kết quả tương tự trong gần 2 thập kỉ qua. Thứ bảy là sự sẵn có của tài nguyên. Tài nguyên ở Mê-hi-cô, Ả-rập Xê-út, Nga và Nam Phi rất khó được quản lý. Ở mỗi quốc gia, chúng tôi đã quan sát những khoản thu từ những nguồn tài nguyên này “tiếp tay” cho những khoản chi tiêu không thiết thực của chính phủ cũng như tạo đà cho tham nhũng. Hơn nữa, sự sẵn có của tài nguyên giá trị như vậy có xu hướng đẩy đồng tiền bản tệ vượt quá giá trị. Sự tăng chi tiêu của chính phủ khiến lạm phát và giá cả tăng cao, xuất khẩu những sản phẩm không phải là tài nguyên sẽ ít cạnh tranh hơn - thường vẫn được gọi là hiện tượng “bệnh Hà Lan”. Quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên đòi hỏi chính phủ phải có tập hợp những công cụ tổ chức nhằm tránh sự bóp méo tất cả những nhân tố khác của nền kinh tế. Nga, với quỹ bình ổn dầu mới, đang cố gắng khuyến khích Na-uy giải quyết vấn đề này. Thứ tám là hai vấn đề xã hội - tham nhũng và bất ổn thu nhập. Đa số những quốc gia có tệ tham nhũng cao - Mê-hi-cô, Ấn Độ và Nga - chậm phát triển. Những nước có mức tham nhũng tương đối thấp - Singapore, Hoa Kỳ và Nhật Bản - phát triển nhanh hơn nhiều. Người ta có thể kết luận rằng phát triển sẽ gây ra tham nhũng, nhưng tôi nghĩ đến điều ngược lại, lạm phát thấp hơn làm phát triển nhanh hơn. Trung Quốc dường như là một ngoại lệ. Nước này có tệ nạn tham nhũng cao nhưng vẫn phát triển nhanh. Nhưng, không thể phủ nhận Trung Quốc đang giàu lên -cả về mặt xã hội và kinh tế - có tỉ lệ làm phát ngày càng thấp hơn. Thứ chín là sự phân bố thu nhập không công bằng đang kìm hãm sự phát triển, làm yếu cơ cấu xã hội. Mê-hi-cô (đại diện cho Mỹ Latin), Nam Phi (đại diện cho Châu Phi) và Nga (đại diện Đông Âu) có sự mất cân bằng thu nhập lớn. Nhật Bản, Italia, Singapore và gần đây là Hoa Kỳ có sự phân bố thu nhập cân bằng hơn. Tôi thấy những mối quan hệ này không phải trùng hợp ngẫu nhiên. Sự phân bố thu nhập không chỉ gây ra sự mâu thuẫn xã hội mà còn gây cản trở phát triển, do đa số dân cư không có tiền mua sắm. Tàn dư của chủ nghĩa thực dân, phân biệt chủng tộc và những vấn đề hạ tầng nông thôn và giáo dục là nguyên nhân của nghèo đói, ảnh hưởng mạnh mẽ đối với phân bố thu nhập, chống tham nhũng cũng như chính sách thuế tiến bộ. Cuối cùng là tính không đối xứng trong nền kinh tế toàn cầu. Hầu hết các vùng có thặng dư tài khoản vãng lai (hoặc có thể có mức thâm hụt ngân sách thấp). Một số vùng thuộc Nhật Bản có mức thặng dư lớn nhưng sự thâm hụt ngân sách của Hoa Kỳ chiếm tới 80%. Sự thâm hụt này có thể sẽ lớn hơn trong năm 2006. Đây là vấn đề vừa mang tính chất ngắn hạn vừa mang tính chất dài hạn. Trong ngắn hạn, điều này có nghĩa là Hoa Kỳ nắm giữ phần lớn tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ của thế giới. Bất kỳ khi nào Hoa Kỳ gặp suy thoái kinh tế, các nước xuất khẩu vào nước này sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, đặc biệt là Trung Quốc, Đức và Nhật Bản. Ngược lại, để duy trì phát triển, Hoa Kỳ phải vay rất nhiều từ nguồn tiết kiệm của thế giới, bằng cách bán dần tài sản của mình và ngày càng mắc nhiều nợ trong dài hạn. Sự mất đối xứng này không thể kéo dài mãi. Thực sự, bản thân tôi cho rằng sự kiên nhẫn của thế giới sắp gần hết. Dù sớm hay muộn, hoặc tỷ giá hối đoái sẽ điều chỉnh hoặc một số nước cho vay sẽ mất bình tĩnh. Khi điều đó xảy ra, một cuộc điều chỉnh toàn cầu mạnh mẽ sẽ không tránh khỏi - làm giảm mức sống ở Hoa Kỳ, gây ra thất nghiệp trên diện rộng cũng như suy thoái sâu sắc ở những nơi khác trên thế giới. Chúng tôi đều thấy vai trò thiết yếu của định chế chính phủ - cả tốt và xấu - ở cả 10 nước được nghiên cứu. Đây là trọng tâm của cuốn sách này. Khi các đảng phái chính trị cho phép thâm hụt ngân sách quá mức, định chế chính trị ấy đang thất bại. Khi toà án cho phép tội phạm có tổ chức hoặc tham nhũng tràn lan, định chế đó cũng đang thất bại. Nhưng khi các cơ quan chính phủ khuyến khích tiết kiệm hoặc kiểm soát lạm phát hoặc tái đầu tư nguồn lực đi vay, những cơ quan đó đang hoạt tốt. Khi lương hưu được chi trả, y tế có hiệu quả, người nghèo được học hành, thì chính phủ đó đang tạo ra những định chế cần thiết để tạo ra sự phát triển kinh tế ổn định. Phần II: Con đường kịch bản. Bạn đọc: Anh Minh Hãy gửi cho chúng tôi những phát hiện của bạn kèm theo lời bình luận. Phần II: Con đường và kịch bản Điều nên bàn đến hiện nay có thể là con đường phát triển trong tương lai gần. Đó là nếu ai đó biết một vị trí của một đất nước trong thời gian vừa qua cũng như hiện nay, họ có thể rút ra một số kết luận có logic về vị thế mà đất nước này đang tiến tới Trong phần I giới thiệu về cuốn sách "Các quốc gia cạnh tranh như thế nào?" của tác giả GS. Richard H. K. Vietor tại Trường kinh doanh Harvard bạn đọc Anh Minh đã giới thiệu sơ lược Vai trò không thể thiếu của Chính phủ đối với chiến lược, Cấu trúc và Chính phủ trong kinh tế toàn cầu. Phần tiếp theo của cuốn sách này tác giả đã đề cập đến vấn đề: Con đường và kịch bản. ...Doanh nhân cần hiểu thị trường toàn cầu và chính sách chính phủ để (1) biết được sự cạnh tranh, (2) đánh giá cơ hội mở rộng kinh doanh trên thị trường quốc tế, (3) cân nhắc nguy cơ và ích lợi của đầu tư trực tiếp nước ngoài, và (4) phán đoán hậu quả của biến động tỷ giá hối đoái đối với thương mại, đầu tư và lãi suất. Tôi tin họ cần hiểu những vấn đề này trên con đường phát triến trong nền kinh tế toàn cầu. Nhưng cũng vì lợi ích quốc gia, doanh nhân và những người có hiểu biết khác phải buộc những nhà lãnh đạo chính trị xây dựng những định chế mạnh và áp dụng những chính sách có hiệu quả. GS. Richard H. K. Vietor tại Trường kinh doanh Harvard (đứng giữa). Điều nên bàn đến hiện nay có thể là con đường phát triển trong tương lai gần. Đó là nếu ai đó biết một vị trí của một đất nước trong thời gian vừa qua cũng như hiện nay, họ có thể rút ra một số kết luận có logic về vị thế mà đất nước này đang tiến tới. Ví dụ như Hoa Kỳ, chúng tôi biết thâm hụt ngân sách chính phủ sẽ tiếp diễn nhiều năm nữa, mặc dù chính phủ thực hiện biện pháp giảm thâm hụt ngay. Chúng tôi biết vị thế thương mại của Hoa Kỳ - thâm hụt gần 800 tỷ USD - không thể đảo ngược trong một vài năm tới. Thậm chí nếu tỷ giá hối đoái được điều chỉnh đột ngột, hoặc là tiết kiệm của Hoa Kỳ tăng lên thì cũng phải mất nhiều năm - có thể 5 đến 10 năm để thay đổi khả năng sản xuất của mình cũng như nâng vị thế xuất khẩu. Trong khi đó, chúng ta biết rằng không có tiết kiệm có nghĩa chúng ta phải bán tài sản cho nước khác trong những năm tới nhằm tăng vốn đầu tư trong nước. Tất nhiên, nợ thuần của Hoa Kỳ sẽ tăng lên 2 nghìn tỷ USD đến 3 nghìn tỷ USD trong vài năm tới. Điều này có thể cho chúng ta biết một điều gì đó về giá trị của đồng USD và hướng lãi suất thực. Tương tự, để tránh một số loại khủng hoảng chính trị và môi trường, chúng ta có thể phán đoán còn đường tăng trưởng của Trung Quốc và Ấn Độ. Hai nước này sẽ tiếp tục tăng ở mức độ cao trong một vài năm tới. Điều này sẽ cho chúng ta biết một điều gì đó về đầu tư trực tiếp nước ngoài, về vị thế thương mại hàng hoá và dịch vụ, về mức tăng lương. Tuy nhiên, dự đoán này có thể sẽ làm người dân Mê-hi-cô, Nam Phi và thậm chí Châu Âu khá lo lắng bởi vì thị phần của Châu Á chắc chắn tăng lên. Chúng ta hãy nghĩ một chút về tương lai gần sử dụng những kịch bản bắt nguồn từ những phán đoán mà chúng ta đã dày công phát triển. Chúng ta sẽ bắt đầu từ Singapore, quốc gia phát triển nhất Đông Nam Á. Ở đây, chúng tôi thấy những định chế hoạt động vô cùng hiệu quả cộng với sự lãnh đạo sáng suốt đã làm Singapore trở thành một quốc gia giàu có. Nhưng hiện nay, trong tương lai gần, Singapore đang ngày càng bị áp lực bởi Trung Quốc và Ấn Độ ở phía sau cũng như Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ và Châu Âu ở phía trước dù chiến lược thuế thấp và hạ tầng hiện đại, đặc biệt là công nghệ sinh học, có thành công hay không. Nếu thành công, chúng ta có thể hy vọng Singapore sẽ là một siêu cường dịch vụ tại Đông Nam Á, nhanh chóng đuổi kịp mức thu nhập của Châu Âu. Nếu không thành công, điều gì sẽ xảy ra đối với sự tăng trưởng của Singapore khi công việc thấp cấp và đầu tư rơi vào tay Trung Quốc? Kịch bản phát triển cho Trung Quốc là rõ ràng hơn. Khi chúng ta nghĩ một phần về con đường tăng trưởng của Trung Quốc, chúng ta có thể phác ra 2 con đường phát triển cho tương lai gần. Trung Quốc đã và đang phát triển với mức tăng trên 8%/năm và có thặng dư trong tài khoản ngày càng lớn. Con đường này sẽ hứa hẹn hơn khi Trung Quốc dần điều chỉnh theo những cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nếu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào khuyến khích tiêu dùng, tăng giá đồng nhân dân tệ, và dần tự do hoá chính thể, quan hệ thương mại (và cả đối ngoại) chắc chắn sẽ phát triển. Nếu ông giúp các ngân hàng xoá nợ xấu mạnh mẽ hơn, tạo ra một hệ thống quản lý phù hợp hơn, tiếp tục tư nhân hoá những ngành nhà nước đã chiếm hữu thì Trung Quốc có thể tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa trong ít nhất một thập kỷ tới. Nhưng nếu Trung Quốc tiếp tục đi trên con đường hiện tại, tăng xuất khẩu quá nhanh mà không tự do hoá thương mại, nước này chắc chắn sẽ gặp vấn đề. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc phải chi 100 tỷ USD mua trái phiếu của Hoa Kỳ mỗi năm, nhờ vậy, kích thích và thúc đẩy kinh tế trong nước (giá cả và tài sản) tăng quá nhanh. Nếu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào không thể cải cách ngân hàng, khu vực nhà nước cũng như cố gắng duy trì quyền lực của mình, áp lực sẽ tự nảy sinh trong nội bộ đất nước này. Nhu cầu năng lượng, nhập khẩu lương thực tăng nhanh nhờ vào đồng nhân dân tệ có mức giá thấp và xuất khẩu hàng sản xuất vào Hoa Kỳ sẽ gây ra mất thăng bằng cũng như buộc Hoa Kỳ phải áp dụng các rào cản thương mại. Lúc đó, công nhân Trung Quốc có thể sẽ nổi loạn. Những vấn đề này đã được thừa nhận tại kỳ họp của Quốc hội nước này trong tháng 3 năm 2006. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào xác định rằng sự phân bố thu nhập trong nước, sử dụng hiệu quả các nguồn lực và môi trường là những vấn đề quan tâm hàng đầu trong vòng 5 năm tới. Ông kêu gọi gia tăng tiêu dùng, tăng năng suất lao động, hơn là tiết kiệm và đầu tư quá mức. Tuy nhiên, ông chưa đề cập gì đến vấn đề cải cách chính trị. Khi đến thăm Trung Quốc trước khi kỳ họp quốc hội này bế mạc, phái đoàn thượng nghị sỹ Hoa Kỳ thúc ép Trung Quốc nâng tỷ giá hối đoái. Sau đó, họ trở về Hoa Kỳ đầy lạc quan, tiếp tục đợi chờ cho đến tìm đến biện pháp áp thuế đối với Trung Quốc. Tôi tin đây giống như là trò tung hứng mà Trung Quốc sẽ theo đuổi. Họ vẫn ủng hộ tiếp tục tăng trưởng và cải cách từng bước. Nhưng chính phủ cần khắc phục sự mất cân đối mà quá trình tăng truởng gây ra - đối với trong nước là thu nhập, ngân hàng, năng lượng và môi trường còn đối với bên ngoài là thặng dư quá nhiều, đặc biệt là với Hoa Kỳ. Đối với các doanh nghiệp, những kịch bản này sẽ tạo ra sự khác biệt rõ ràng. Ở kịch bản tích cực, cơ hội đầu tư sẽ rất nhiều. Một doanh nghiệp như GE sẽ dự báo về sự phát triển vượt bậc trong kinh doanh của mình tại Trung Quốc - điện, hạ tầng, tuốc-bin phản lực, chất dẻo và hệ thống y tế - tất cả những thứ này Trung Quốc sẽ cần cho mục tiêu phát triển của mình. Ngân hàng và các doanh nghiệp dịch vụ phức tạp có thể nghĩ đến sự tham gia mạnh mẽ hơn vào thị trường này khi cam kết với WTO được thực hiện và khi mà luật sở hữu trí tuệ được thực thi. Mặt khác, bằng cánh giữ mức lương thấp và đồng nhân dân tệ yếu, kịch bản tiêu cực sẽ tiếp tục đe doạ những công ty sản xuất nhỏ hơn. Những nước như Mê-hi-cô, Malaysia, Thổ Nhĩ Kì và Nam Phi có thể bị ảnh hưởng xấu khi phải cạnh tranh với những thị trường có mức lương tương tự. Ấn Độ, tụt hậu so với Trung Quốc tới 2 thập kỷ, phải đối đầu với thách thức khác. Với một nền dân chủ bị chia rẽ bởi bất đồng dân tộc và tôn giáo, Ấn Độ cần mở rộng cửa hơn nữa. Về mặt chính trị, nguy cơ lớn nhất là xung đột giữa người Hindu và người Hồi giáo và với Pakistan. Vấn đề kinh tế của nó tập trung vào thâm hụt tài khoá, bất công trong thu nhập, hạ tầng không đầy đủ và thiếu vốn nước ngoài. Ở đây, hãy hình dung về một kịch bản mà Ấn Độ tự do hoá mạnh mẽ, giảm thâm hụt và tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước. Làm như vậy, tăng trưởng có thể lên tới 9%/năm, giúp phát triển cơ sở hạ tầng và giúp giảm nghèo hơn nữa. Với mức thất nghiệp thấp hơn, xung đột dân tộc và tôn giáo có thể sẽ giảm bớt, giúp đàm phán hoà bình với Pakistan. Tăng trưởng cao cộng với thu thuế có hiệu quả hơn sẽ giảm thâm hụt ngân sách sau một vài năm, giúp tỷ lệ nợ/GDP giảm từ mức 86% hiện nay. Làm được như vậy sẽ giúp giảm chi tiêu chính phủ, hạ thấp mức lãi suất thực tế và hỗ trợ đầu tư. Một chiến lược tích cực như vậy sẽ khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài như cách các công ty phương Tây xây dựng cơ sở hạn tầng và vị thế của mình ở những thị trường hạ nguồn với giá trị gia tăng cao hơn. Một kịch bản khác cũng có thể xảy ra. Liên minh chính phủ (của nghị viện và Cộng sản) có thể sẽ không hoàn thành được cải cách và khiến thâm hụt tài khoá tăng vọt. Áp lực năng lượng có thể làm tăng thâm hụt tài khoản vãng lai, làm gia tăng định kiến với phong trào bài ngoại. Xung đột dân tộc và xung đột quốc tế có thể vì đó mà nghiêm trọng hơn, cản trở luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), phát triển hạ tầng nói riêng và phát triển của Ấn Độ nói chung. Có thể những công ty nước ngoài đã phải gánh chịu những điều này, khiến đầu tư FDI trở nên quá mạo hiểm. Quay trở lại Châu Mỹ Latin với sự phục hồi nhanh chóng sau khủng hoảng nợ, chúng ta có thể nghĩ về những kịch bản cho Mê-hi-cô trong năm năm tới. Mê-hi-cô tất nhiên phải cân nhắc việc cạnh tranh với Trung Quốc, Malaysia, thậm chí Singapore trong tương lai gần. Nam Phi, Mê-hi-cô có vẻ như đang bị “mắc kẹt ở giữa”. Với ích lợi từ việc gia nhập NAFTA và đầu tư trực tiếp nước ngoài, Mê-hi-cô đã tạo ra được ngành kinh tế xuất khẩu, tạo việc làm cho hơn một triệu người. Nhưng ngành xuất khẩu này ngày càng chịu nhiều thách thức từ Trung Quốc, Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ và có thể Ấn Độ trong dịch vụ gia công. Như vậy, trong cạnh tranh chuỗi giá trị gia tăng với những nước ở phía sau, Mê-hi-cô đang thất thế do mức lương và mức sống của nước này cao hơn. Còn trong cạnh tranh chuỗi giá trị gia tăng với những nước đi trước, Mê-hi-cô thiếu chuỗi cung cấp, giáo dục và kinh nghiệm để cạnh tranh với những nước như Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan. Câu hỏi đặt ra là người Mê-hi-cô sẽ tiếp tục tăng xuất khẩu với sức cạnh tranh hơn như thế nào? Họ có thể thay đổi gì trong chiến lược tăng năng suất lao động và giá trị gia tăng. Với chương trình chống lạm phát mạnh mẽ, họ có thể làm cách nào để giữ đồng tiền không tăng giá tới mức làm mất tính cạnh tranh của xuất khẩu - đặc biệt là khi Trung Quốc sẽ không chọn giải pháp tăng giá đồng nhân dân tệ? Nguồn tài nguyên của Mê-hi-cô sẽ mang đến nhiều hứa hẹn nhưng chỉ với cải cách chính phủ thì công ty PEMEX (hoặc những công ty điện khác) mới tái đầu tư mạnh mẽ. Trong cuộc bầu cử năm 2006, nền dân chủ non trẻ cùng với nền kinh tế vĩ mô ổn định của Mexico đang đứng trước những thách thức từ phe cánh tả đối lập. Nếu đắc cử tổng thống, liệu ông Lopez Obrador, ứng cử viên Đảng Dân chủ Cách mạng có giống như ông tổng thống Luiz Inácio Lula da Silva của Brazil chỉ nói về công cuộc cách mạng chứ không phải là việc thực hiện chính sách khả thi hay là giống như Tổng thống Hugo Chávez của Venezuela đang làm hỏng nền dân tuý nước này? Hay là liệu Đảng Dân chủ của tổng thống Felipe Calderon có thể thông qua bộ luật nhằm đẩy mạnh tính cạnh tranh đất nước không? Và thêm vào đó, các công ty nước ngoài sẽ làm ăn ra sao ở Mexico, hoặc sẽ đầu tư hay đánh giá những lựa chọn đầu tư như thế nào? Liệu họ có thể tính trước được tỷ giá hối đoái, mức lãi suất và mức lương không? Chúng tôi chọ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docquocgia_canhtranh.doc