●Chuẩn bị một dãy dung dịch chuẩn ( mẫu đầu ), ít nhất là 3 mẫu, thông
thường là 5 đến 6 mẫu, có nồng độchính xác, tăng dần nhất định, ví dụ: C1, C2,
C3, C4, C5, C6 của chất chuẩn phân tích.
●Sau đó chọn các thông sốcủa máy, các điều kiện phù hợp và đo cường độ
của vạch phổ hấp thụcủa nguyên tốphân tích trong các dung dịch mẫu chuẩn, ví
dụ: giá trị cường độ tương ứng với các nồng độ ởtrên là D1, D2, D3,D4,D5,D6 .
●Xây dựng đường chuẩn D = f(C).
●Dung dịch mẫu phân tích có nồng độ Cx chưa biết cũng được chuẩn bịvà
đo nhưcác dung dịch mẫu chuẩn, được giá trị Dx
74 trang |
Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Các phương pháp phân tích bằng công cụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự chen lấn của các vạch phổ của các nguyên tố khác, nếu không loại trừ
55
được các ảnh hưởng này thì lại phải tìm cách loại bỏ các nguyên tố này từ quá
trình xử lí mẫu.
Ngoài ra còn phải kể đến sự hấp thụ của các hạt rắn rất nhỏ tồn tại trong
môi trường hấp thụ của ngọn lửa đèn khí, đó là các hạt li ti của vật chất mẫu
phân tích chưa bị hóa hơi và nguyên tử hóa, hay các hạt muội cácbon của nhiên
liệu chưa được đốt cháy hoàn toàn. Các hạt này thường có ở lớp vỏ của ngọn
lửa, chúng hấp thụ hoặc chắn đường đi của chùm sáng đơn sắc từ nguồn bức xạ
chiếu vào môi trường hấp thụ. Yếu tố này được gọi là sự hấp thụ giả, thể hiện rất
rõ khi chọn không đúng chiều cao của đèn nguyên tử hóa mẫu và khi hỗn hợp
cháy không được đốt cháy tốt, hay do thành phần của hỗn hợp khí cháy không
được chọn phù hợp.
3.3.2. Các yếu tố vật lí
Thuộc về các yếu tố này, thường có những ảnh hưởng sau:
1. Độ nhớt và sức căng bề mặt của dung dịch mẫu: Yếu tố này ảnh hưởng đến
tốc độ dẫn mẫu vào buồng aerosol hóa và hiệu suất aerosol hóa mẫu và từ đó
ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Nói chung tốc độ dẫn mẫu là tỉ lệ nghịch với
độ nhớt của dung dịch. Nguyên nhân sự khác nhau về độ nhớt và sức căng bề
mặt của dung dịch mẫu là sự khác nhau về nồng độ axít, loại axít, nồng độ của
chất nền của mẫu, thành phần của các chất có trong dung dịch mẫu. Để lại trừ
ảnh hưởng này, chúng ta thường dùng các biện pháp sau đây:
- Đo và xác định theo phương pháp thêm tiêu chuẩn.
- Pha loãng mẫu bằng một dung môi hay một nền phù hợp.
- Thêm vào mẫu một chất đệm có nồng độ đủ lớn.
- Dùng bơm để đẩy mẫu với một tốc độ xác định cần thiết.
2. Hiệu ứng lưu lại, thường thể hiện trong phép đo phổ không ngọn lửa, có
thể giải thích cơ chế như sau: khi nguyên tử hóa mẫu để đo cường độ vạch phổ
thì một lượng nhỏ của nguyên tố phân tích không bị nguyên tử hóa, chúng được
lưu lại trên bề mặt cuvet và cứ thế tích tụ qua một số lần nguyên tử hóa mẫu,
nhưng đến một lần nào đó thì nó lại bị nguyên tử hóa theo và do đó tạo ra số
nguyên tử tự do tăng đột ngột không theo nồng độ của nó trong mẫu, nghĩa là
56
làm tăng cường độ vạch phổ và dẫn đến làm sai lạc kết quả phân tích. Yếu tố
này xảy ra và càng lớn khi mẫu phân tích có nồng độ lớn, đồng thời cũng phụ
thuộc vào bản chất của nguyên tố cần phân tích, dạng hợp chất nó tồn tại trong
mẫu, nhất là loại cuvet graphít được dùng. Các cuvét được chế tạo từ graphít đã
hoạt hóa thường hạn chế được hiệu ứng này, nghĩa là khi bề mặt càng mịn thì
ảnh hưởng càng nhỏ, bề mặt càng xốp thì ảnh hưởng càng lớn. Để loại trừ các
ảnh hưởng này, có thể làm như sau:
- Làm sạch cuvét sau mỗi lần nguyên tử hóa mẫu, để làm bay hơi hết các
chất còn lại trong cuvet. Tất nhiên phải thực hiện ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ
nguyên tử hóa nguyên tố phân tích.
- Dùng các loại cuvét được chế tạo từ graphít đã hoạt hóa toàn phần, có bề
mặt chắc và mịn.
- Khi phân tích nên đo những mẫu có nồng độ nhỏ trước.
- Tráng bề mặt của cuvét bằng một lớp những hợp chất bền nhiệt.
3. Sự ion hóa: là yếu tố ảnh hưởng mạnh đến kết quả phân tích, vì sự ion hóa
làm giảm số nguyên tử tự do của nguyên tố cần phân tích trong môi trường hấp
thụ tạo ra phổ, làm giảm cường độ vạch phổ. Mức độ ion hóa của mỗi nguyên tố
là khác nhau và phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường hấp thụ. Nói chung, với
một điều kiện nhất định, các nguyên tố có thế ion hóa càng thấp thì càng bị ion
hóa nhiều; Với một nguyên tố, nhiệt độ của môi trường hấp thụ càng cao thì
nguyên tố đó bị ion hóa nhiều hơn. Thực nghiệm cũng cho thấy, quá trình ion
hóa xảy ra mạnh với các nguyên tố kim loại kiềm, sau đó là kim loại kiềm thổ,
còn đối với các nguyên tố khác thì không đáng kể. Để loại trừ sự ion hóa, có thể
dùng các biện pháp như:
- Chọn điều kiện nguyên tử hóa có nhiệt độ thấp, mà trong điều kiện đó
nguyên tố phân tích hầu như không bị ion hóa.
- Thêm vào mẫu phân tích một chất đệm cho sự ion hóa, thường là muối
halogen của kim loại kiềm với nồng độ lớn phù hợp, chúng có thế ion hóa thấp
hơn thế ion hóa của nguyên tố phân tích, trong điều kiện này nguyên tố phân
tích sẽ không bị ion hóa nữa.
57
4. Sự kích thích phổ phát xạ của nguyên tố phân tích trong môi trường hấp
thụ, yếu tố này làm giảm số nguyên tử trung hòa trong môi trường hấp thụ, do
đó cũng làm giảm cường độ của vạch phổ hấp thụ. Hiện tượng này thường xảy
ra với các nguyên tố kim loại kiềm, sau đó là kim loại kiềm thổ, còn đối với các
nguyên tố khác thì không đáng kể. Để loại trừ ảnh hưởng này có thể dùng các
biện pháp như:
- Chọn nhiệt độ nguyên tử hóa mẫu thấp phù hợp mà tại đó sự kích thích
phổ phát xạ của nguyên tố phân tích là không xảy ra hoặc không đáng kể.
- Thêm vào mẫu phân tích một chất đệm để hạn chế sự phát xạ của
nguyên tố phân tích. Chính là các muối halogen của kim loại kiềm, có thế kích
thích phổ phát xạ thấp hơn thế kích thích phổ phát xạ của nguyên tố phân tích.
Trên đây là một số yếu tố vật lý có thể xuất hiện trong phép đo AAS và có
thể ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Nhưng mức độ xảy ra là rất khác nhau
trong mỗi trường hợp cụ thể, có khi có, có khi không, do đó cần phải xem xét để
tìm biện pháp loại trừ phù hợp.
3.3.3. Các yếu tố hóa học
Trong phép đo AAS, ảnh hưởng của các yếu tố hóa học cũng rất đa dạng
và phức tạp, xuất hiện cũng rất khác nhau trong mỗi trường hợp cụ thể, một số
yếu tố thường ảnh hưởng như sau:
1. Nồng độ axít và loại axít trong dung dịch mẫu: Nồng độ axít trong dung
dịch mẫu luôn có ảnh hưởng đến cường độ của vạch phổ của nguyên tố phân
tích, sự ảnh hưởng này thường gắn liền với loại anion của axít. Các axít càng
khó bay hơi thường càng làm giảm nhiều cường độ của vạch phổ, còn các axít
dễ bay hơi gây ảnh hưởng nhỏ hơn. Thực nghiệm đã xác định các axít làm giảm
cường độ của vạch phổ theo thứ tự tăng dần như sau: HClO4 < HCl < HNO3 <
H2SO4 < H3PO4 < HF. Chính vì thế trong thực tiễn phân tích, người ta thường
dùng môi trường là HCl hay HNO3 ở nồng độ khoảng 1% ÷ 2% vì ở nồng độ
này ảnh hưởng của hai axít là không đáng kể.
2. Ảnh hưởng của cation lạ: Trong dung dịch mẫu, ngoài nguyên tố cần phân
tích, thường còn chứa các nguyên tố khác, sự tồn tại của các nguyên tố này dưới
58
dạng cation hay anion có thể làm tăng, cũng có thể làm giảm, cũng có khi không
ảnh hưởng đến cường độ của vạch phổ. Khi có ảnh hưởng thì mức độ ảnh hưởng
cũng rất khác nhau trong từng trường hợp cụ thể, nhiều nghiên cứu chuyên môn
sâu về phương pháp AAS đề cập cụ thể từng loại và nồng độ cation gây ảnh
hưởng. Cũng phải lưu ý rằng, ảnh hưởng của cation trong dung dịch mẫu đến
cường độ của vạch phổ của nguyên tố cần phân tích trong phép đo AAS với kỹ
thuật nguyên tử hóa mẫu bằng ngọn lửa và không ngọn lửa cũng rất khác nhau.
Ví dụ ion La(III) trong phép đo F - AAS là yếu tố để loại trừ ảnh hưởng của các
ion lạ khi xác định Ca, Mg, Mn, Al, Fe. Nhưng chính ion La(III) trong phép đo
ETA - AAS lại làm giảm cường độ của vạch phổ khi xác định Ca, Mg, Mn, Al,
Fe. Điều này có nghĩa là mỗi cation trong từng tường hợp cụ thể và trong mỗi
phép đo lại có ảnh hưởng khác nhau và chúng ta cần quan tâm, khảo sát.
3. Ảnh hưởng của anion: sự ảnh hưởng này tương tự như ảnh hưởng của các
loại axít, các anion của các axít dễ bay hơi thường ít làm giảm cường độ của
vạch phổ, riêng hai anion ClO4- và CH3COO- lại gây sự tăng cường độ của vạch
phổ (hiệu ứng dương). Các anion gây hiệu ứng âm (giảm cường độ của vạch
phổ) theo thứ tự tăng dần là: Cl- < NO3- < CO32- < SO42- < PO43- < SiO32- , ngoài
ra khi nồng độ anion tăng thì tác dụng ảnh hưởng cũng tăng theo. Vì vậy trong
mỗi phép đo phải giữ cho nồng độ của các anion trong mẫu phân tích và mẫu
chuẩn là như nhau và ở một giá trị không đổi, mặt khác cũng không nên chọn
H2SO4 làm môi trường của mẫu cho phép đo AAS mà chỉ nên dùng HCl hay
HNO3 ở nồng độ dưới 2%.
4. Ảnh hưởng của thành phần nền, yếu tố này còn được gọi là matrix effect.
Ảnh hưởng này xuất hiện ở các mẫu có chứa các nguyên tố nền ở dưới dạng các
hợp chất bền nhiệt, khó bay hơi và khó nguyên tử hóa, chính các chất này làm
khó khăn và cản trở quá trình hóa hơi và nguyên tử hóa của các nguyên tố cần
phân tích. Để loại trừ ảnh hưởng này có thể dùng các biện pháp như:
- Tăng nhiệt độ nguyên tử hóa mẫu.
- Thêm vào mẫu các chất phụ gia có nồng độ phù hợp để ngăn cản sự xuất
hiện các hợp chất bền nhiệt.
59
- Tách, loại bỏ các nguyên tố nền, khi hai biện pháp trên không đạt được.
Trong ba biện pháp này, biện pháp thứ nhất cũng chỉ thực hiện được trong
chừng mực nhất định, vì không thể tăng nhiệt độ nguyên tử hóa mẫu lên cao mãi
được do sự hạn chế của trang thiết bị, bản chất của khí đốt, hơn nữa nếu tăng
nhiệt độ lên cao quá thì sẽ xuất hiện ảnh hưởng của sự ion hóa và sự phát xạ.
Biện pháp thứ hai là thông dụng nhất, các chất phụ gia hay dùng là LaCl3; SrCl2;
LiCl; KCl; AlCl3 cho phép đo F - AAS, trong đó LaCl3 được sử dụng rộng rãi
nhất. Trong phép đo ETA - AAS hay sử dụng LiBO2, NH4NO3 hoặc hỗn hợp
của hai chất này với nồng độ phù hợp.
5. Ảnh hưởng của dung môi hữu cơ: Thực nghiệm cho thấy sự có mặt của
dung môi hữu cơ trộn lẫn với nước trong dung dịch mẫu phân tích, hay mẫu
phân tích hòa tan trong dung môi hữu cơ thường làm tăng cường độ của vạch
phổ lên nhiều lần. Đây chính là một phương pháp để tăng độ nhạy của phương
pháp phân tích, khi phân tích các nguyên tố có nồng độ nhỏ ở sát giới hạn dưới
của phép đo, chúng ta có thể thêm vào dung dịch mẫu phân tích một dung môi
hữu cơ có nồng độ phù hợp thì có thể tăng độ nhạy của phương pháp phân tích
lên đến vài lần so với khi chỉ dùng dung môi nước. Tuy nhiên dung môi hữu cơ
thêm vào phải tinh khiết để tránh nhiễm bẩn mẫu và phải trộn đều được với
nước, trong thực tế nếu dung môi hữu cơ không hòa tan được trong nước thì
chúng ta có thể chiết nguyên tố phân tích từ dung môi nước ở dạng hợp chất
phức vào dung môi hữu cơ rồi đo phổ hấp thụ của nguyên tố phân tích trong
dung môi hữu cơ đó.
3.4. Các phương pháp phân tích định lượng
3.4.1. Phương trình cơ bản của phép đo AAS
Như đã nói ở trên, phương trình 3.5 chính là phương trình cơ bản của
phép đo AAS
Dλ = k.Cb (3.5)
Với Cx Co thì b nhỏ hơn 1, giá trị Co được coi
là giới hạn của vùng tuyến tính. Đồ thị dưới đây cho biết quan hệ giữa D và C và
60
khoảng tuyến tính của mỗi phép đo, khoảng tuyến tính này là thay đổi trong
từng trường hợp phân tích cụ thể và phải khảo sát để xác định.
3.4.2. Mẫu đầu để dựng đường chuẩn
Trong phương pháp phân tích định lượng AAS, các dung dịch chuẩn (còn
gọi là mẫu đầu) để dựng đường chuẩn cũng bắt buộc phải thỏa mãn một số điều
kiện nhất định, đó là:
1. Các mẫu đầu phải có trạng thái vật lý và hóa học như mẫu phân tích.
Nghĩa là mẫu phân tích ở trạng thái, dung môi, môi trường và dạng liên kết nào
thì mẫu đầu cũng phải có tính chất giống như thế. Có như vậy thì mới loại trừ
được ảnh hưởng của thành phần của mẫu đến kết quả phân tích.
2. Các mẫu đầu và mẫu phân tích phải được xử lí, chuẩn bị trong cùng điều
kiện như nhau.
3. Các mẫu đầu phải bền vững theo thời gian, thành phần đúng như tính toán
ban đầu để có thể sử dụng lâu dài.
4. Nồng độ của các nguyên tố cần phân tích trong các mẫu đầu phải rất chính
xác theo yêu cầu của phương pháp phân tích, đồng thời khoảng nồng độ của một
dãy mẫu đầu phải phân bố đều trong vùng tuyến tính của phép đo.
3.4.3. Khái niệm về độ nhạy và giới hạn phát hiện của phép đo AAS
61
3.4.3.1. Khái niệm về độ nhạy
Độ nhạy là một đại lượng chỉ ra khả năng của phương pháp phân tích,
phương pháp phân tích có độ nhạy cao tức là nồng độ giới hạn dưới có thể phân
tích được là nhỏ. Độ nhạy của phép đo AAS phụ thuộc vào các yếu tố như: hệ
thống máy đo; Điều kiện và kỹ thuật nguyên tử hóa mẫu, phép đo F-AAS có độ
nhạy kém phép đo ETA-AAS; Khả năng và tính chất hấp thụ bức xạ của mỗi
vạch phổ, vạch phổ nào, nguyên tố nào có khả năng hấp thụ bức xạ càng mạnh
thì phép đo càng nhạy, đối với một nguyên tố thì các vạch phổ khác nhau cũng
có độ nhạy khác nhau. Chính vì vậy khi nói đến độ nhạy của một nguyên tố là
phải gắn liền với điều kiện phân tích cụ thể.
Trong phép đo AAS độ nhạy tuyệt đối và độ nhạy tương đối được định
nghĩa là:
- Độ nhạy tuyệt đối là lượng gam ( khối lượng ) nhỏ nhất của nguyên tố
cần phân tích phải có trong môi trường hấp thụ để còn thu được cường độ của
vạch phổ đã chọn gấp 3 lần tín hiệu nền ( hoặc chiếm 1% toàn băng hấp thụ ).
Như vậy mỗi nguyên tố và mỗi vạch phổ sẽ có độ nhạy tuyệt đối khác nhau, khi
phân tích các nguyên tố có nồng độ nhỏ phải chọn các vạch có độ nhạy cao để
đo.
- Độ nhạy tương đối là nồng độ nhỏ nhất của nguyên tố cần phân tích có
trong mẫu để còn phát hiện được tín hiệu hấp thụ của nó theo một vạch phổ đã
chọn và tín hiệu này phải bằng 3 lần tín hiệu nền ( hoặc chiếm 1% toàn băng hấp
thụ ). Loại độ nhạy này được dùng phổ biến hơn độ nhạy tuyệt đối, kể cả trong
các phương pháp phân tích khác.
3.4.3.2. Khái niệm về giới hạn phát hiện
Bên cạnh khái niệm về độ nhạy, người ta còn sử dụng giới hạn phát hiện
đối với một nguyên tố khi dùng một vạch phổ để xác định nó. Cũng tương tự
như độ nhạy, giới hạn phát hiện cũng phân biệt hai khái niệm, đó là:
- Giới hạn phát hiện tuyệt đối của một nguyên tố là khối lượng tối thiểu
của nguyên tố đó cần có trong môi trường hấp thụ để còn phát hiện được tín hiệu
hấp thụ của nó trong một điều kiện nhất định đã chọn.
62
- Giới hạn phát hiện tương đối của một nguyên tố theo một vạch phổ nhất
định có thể xem là nồng độ nhỏ nhất của nguyên tố đó có trong mẫu để còn phát
hiện được tín hiệu hấp thụ của nó theo vạch phổ đó ở trong một điều kiện nhất
định đã chọn.
Trong các tài liệu chuyên môn, hoặc catalo đi kèm theo các máy AAS,
bao giờ cũng liệt kê các giá trị độ nhạy tuyệt đối, độ nhạy tương đối, giới hạn
phát hiện tuyệt đối, giới hạn phát hiện tương đối của từng vạch phổ của từng
nguyên tố.
3.4.4. Các phương pháp định lượng bằng phép đo AAS
Cũng tương tự như các phương pháp phân tích máy khác, để phân tích
định lượng có hai phương pháp chính là phương pháp đường chuẩn và phương
pháp thêm chuẩn.
3.4.4.1. Phương pháp đường chuẩn
● Chuẩn bị một dãy dung dịch chuẩn ( mẫu đầu ), ít nhất là 3 mẫu, thông
thường là 5 đến 6 mẫu, có nồng độ chính xác, tăng dần nhất định, ví dụ: C1, C2,
C3, C4, C5, C6 của chất chuẩn phân tích.
● Sau đó chọn các thông số của máy, các điều kiện phù hợp và đo cường độ
của vạch phổ hấp thụ của nguyên tố phân tích trong các dung dịch mẫu chuẩn, ví
dụ: giá trị cường độ tương ứng với các nồng độ ở trên là D1, D2, D3, D4, D5, D6 .
● Xây dựng đường chuẩn D = f(C).
● Dung dịch mẫu phân tích có nồng độ Cx chưa biết cũng được chuẩn bị và
đo như các dung dịch mẫu chuẩn, được giá trị Dx
● Dựa vào đường chuẩn suy ra nồng độ Cx
Phương pháp này đơn giản, dễ thực hiện và rất tích hợp khi phân tích
hàng loạt nhiều mẫu của cùng một nguyên tố, như trong kiểm tra nguyên liệu
sản xuất, chất lượng thành phẩm..., đây là ưu điểm của phương pháp này. Song
trong những điều kiện khi mà chúng ta không thể chuẩn bị được dung dịch mẫu
chuẩn có thành phần giống như dung dịch mẫu phân tích, nguyên nhân là do
dung dịch mẫu phân tích có thành phần phức tạp chưa xác định được, khi này sẽ
63
rất dễ mắc sai số lớn. Trong những trường hợp này, chúng ta nên dùng phương
pháp thêm tiêu chuẩn.
3.4.4.2. Phương pháp thêm tiêu chuẩn
Trong thực tiễn phân tích, đặc biệt là khi xác định lượng vết các kim loại,
thường gặp phải các đối tượng phân tích có thành phần phức tạp nên không thể
chuẩn bị được dung dịch mẫu chuẩn thích hợp. Trong trường hợp này thì tốt
nhất là dùng phương pháp thêm tiêu chuẩn để loại trừ được ảnh hưởng của thành
phần mẫu (Matrix effect ).
Nguyên tắc của phương pháp này là người ta dùng ngay mẫu phân tích
làm nền để chuẩn bị một dãy dung dịch mẫu đầu, bằng cách lấy một lượng dung
dịch mẫu phân tích và gia thêm vào đó những lượng nhất định của nguyên tố
cần phân tích theo từng bậc nồng độ. Ví dụ lượng thêm vào là ∆C1, ∆C2, ∆C3,
∆C4, như thế chúng ta sẽ có một dãy mẫu chuẩn là:
C0 = Cx
C1 = Cx + ∆C1
C2 = Cx + ∆C2
C3 = Cx + ∆C3
C4 = Cx + ∆C4
Trong đó Cx là nồng độ của nguyên tố cần phân tích.
Tiếp đó cũng chọn các điều kiện thí nghiệm phù hợp và một vạch phổ của
của nguyên tố cần phân tích, tiến hành ghi cường độ hấp thụ của vạch phổ đó
trong dãy mẫu chuẩn, ví dụ ta được các giá trị: D0, D1, D2, D3 và D4. Từ các giá
trị này, xây dựng một đường chuẩn theo hệ tọa độ D - ∆C. Đường chuẩn này cắt
trục tung D tại điểm có tọa độ ( D0; 0 ), sau đó để xác định nồng độ Cx chưa biết,
ta làm như sau:
- Cách 1: Kéo dài đường chuẩn về phía trái, cắt trục hoành tại điểm C0 ,
đoạn OC0 chính bằng giá trị nồng độ Cx .
- Cách 2: Từ gốc tọa độ kẻ một đường song song với đường chuẩn và từ
điểm D0 kẻ đường song song với trục hoành, hai đường này cắt nhau tại điểm M,
64
từ M hạ đường vuông góc với trục hoành, cắt trục hoành tại điểm ∆C0 , đoạn
O∆C0 chính bằng giá trị nồng độ Cx phải tìm.
Phương pháp này có ưu điểm là chuẩn bị mẫu dễ dàng, không cần nhiều
hóa chất tinh khiết cao để chuẩn bị dãy mẫu chuẩn nhân tạo. Mặt khác lại loại
trừ được hoàn toàn ảnh hưởng về thành phần của mẫu cũng như cấu trúc vật lý
của các chất tạo thành mẫu. Tuy nhiên phải chú ý rằng nồng độ thêm vào của
nguyên tố cần phân tích phải theo từng bậc và khoảng cách của các bậc đó phải
xấp xỉ nồng độ Cx thì phần nội suy tuyến tính mới chính xác.
Phương pháp này được sử dụng rất nhiều trong phân tích lượng vết và
lượng cực nhỏ các nguyên tố kim loại trong các loại mẫu, đặc biệt là các loại
mẫu có thành phần phức tạp, các mẫu quặng đa kim. Đồng thời đây cũng là
phương pháp để xác định độ phát hiện của phương pháp phân tích.
3.4.5. Các phương pháp phân tích trực tiếp và gián tiếp bằng phép đo AAS
Trong phép đo phổ hấp thụ nguyên tử AAS để xác định một nguyên tố
hay một hợp chất, người ta có thể tiến hành phân tích ngay chính chất đó theo
phổ hấp thụ nguyên tử của nó, như phân tích kim loại, hay thông qua việc đo
phổ hấp thụ nguyên tử của một chất khác, khi chất phân tích không có tính chất
hấp thụ nguyên tử, nhưng chất này lại có một sự tương tác rất định lượng về mặt
hóa học theo một phản ứng hóa học nhất định với một kim loại có phổ hấp thụ
nguyên tử nhạy. Vì vậy xuất hiện hai loại phương pháp phân tích định lượng
theo phổ hấp thụ nguyên tử AAS, đó là:
- Các phương pháp phân tích trực tiếp, áp dụng để phân tích các chất có
phổ hấp thụ nguyên tử AAS
- Các phương pháp phân tích gián tiếp, áp dụng để phân tích các chất
không có phổ hấp thụ nguyên tử AAS
3.4.5.1. Các phương pháp phân tích trực tiếp
Các phương pháp phân tích trực tiếp phù hợp nhất cho việc xác định các
kim loại có vạch phổ hấp thụ nguyên tử. Vì thế đối tượng của các phương pháp
này là phân tích kim loại trong các mẫu vô cơ và hữu cơ, các mẫu vô cơ như
quặng, đất , đá, hợp kim, xi măng, nước, không khí... còn các mẫu hữu cơ như
65
thực phẩm, đường, sữa, đồ hộp, nước giải khát, các mẫu sinh học như máu,
serum, nước tiểu, thực vật...
Nguyên tắc chung của phương pháp phân tích trực tiếp bao gồm hai giai
đoạn:
- Giai đoạn 1: xử lý mẫu để đưa nguyên tố kim loại cần xác định có trong
mẫu về trạng thái dung dịch của các cation theo một quy trình phù hợp để
chuyển được hoàn toàn nguyên tố kim loại cần xác định vào dung dịch đo phổ.
Giai đoạn này là cực kỳ quan trọng vì nếu xử lý mẫu không tốt sẽ làm mất
nguyên tố cần xác định hay làm nhiễm bẩn thêm vào. Nói cách khác nếu xử lý
mẫu không đúng sẽ là nguồn sai số lớn cho kết quả phân tích mặc dù phương
pháp phân tích đã chọn là phù hợp nhất.
- Giai đoạn 2: tiến hành phân tích nguyên tố kim loại theo một cách phù
hợp như đã đề cập ở trên.
3.4.5.2. Các phương pháp phân tích gián tiếp
Trong những năm gần đây các phương pháp phân tích gián tiếp được sử
dụng nhiều để phân tích các chất không có phổ hấp thụ nguyên tử, ví dụ như
phân tích các anion, các nhóm phân tử, các hợp chất hữu cơ, các loại dược
phẩm... Nguyên tắc của phương pháp phân tích gián tiếp là nhờ một phản ứng
hóa học trung gian có tính chất định lượng của chất cần phân tích với một thuốc
thử thích hợp trong một điều kiện nhất định. Sau đây chúng ta xem xét một vài
phương pháp gián tiếp nhờ phản ứng hóa học trung gian.
1. Phản ứng của chất phân tích với một ion kim loại tạo ra một kết tủa:
Nói chung chất nào khi tác dụng với ion kim loại tạo ra một kết tủa ít tan, có
tính chất định lượng và có thể tách ra được khỏi dung dịch mẫu thì phản ứng đó
có thể dùng được cho phép đo này. Theo nguyên tắc này người ta đã xây dựng
các phương pháp phân tích các ion như: Cl-, NH4+, SO42-, PO43-, C2O42-... Ví dụ
để xác định hàm lượng ion SO42- trong mẫu, người ta cho ion này tác dụng với
dung dịch BaCl2 hay Pb(NO3)2 có nồng độ xác định trong điều kiện phù hợp để
tạo ra kết tủa BaSO4 hay PbSO4 , lọc tách kết tủa khỏi dung dịch. Sau đó xác
định Ba hay Pb theo hai cách, hoặc là trong kết tủa sau khi hòa tan chúng, hoặc
66
xác định lượng Ba hay Pb còn dư trong dung dịch sau khi đã phản ứng hoàn toàn
với lượng ion SO42- trong mẫu. Và từ lượng Ba hay Pb đã tiêu tốn để kết tủa
hoàn toàn ion SO42- chúng ta dễ dàng tính được hàm lượng ion SO42- trong mẫu
phân tích.
2. Phản ứng của chất phân tích với một phức chất kim loại để tạo ra một
hợp chất phức bền có thể chiết tách ra được. Sau đó tách lấy phức chất và xác
định hàm lượng kim loại trong phức chất và từ đó tính ra hàm lượng của chất
cần phân tích. Ví dụ để xác định hàm lượng axit phtalic người ta cho nó tác
dụng với thuốc thử Cu(I)-neocupron để tạo ra phức chất mới là Cu(I)-
neocupron phtalic. Sau đó chiết lấy phức chất này vào dung môi hữu cơ phù hợp
rồi xác định hàm lượng Cu trong phức này, từ đó tính ra hàm lượng axit phtalic
trong mẫu phân tích. Tương tự như vậy người ta cũng xác định hàm lượng ion
NO3- bằng thuốc thử Cu(I)- neocupron.
3. Phản ứng của chất phân tích tạo thành hợp chất dị đa axit. Theo cách
này, những kim loại, ion hay hợp chất có khả năng tạo thành những hợp chất
axit dị đa đều có thể xác định một cách gián tiếp qua hợp chất dị đa. Ví dụ để
xác định P hay ion phôtphat PO43- có thể xác định bằng cách cho cho nó tác
dụng với thuốc thử molypdat trong môi trường axit HNO3 để tạo ra hợp chất dị
đa phôtphomolypdat kết tủa, tách lấy sản phẩm này và xác định Mo trong hợp
chất dị đa theo vạch phổ hấp thụ nguyên tử Mo - 313nm, rồi từ đó tính ra lượng
P hay ion phôtphat PO43-. Muối asenat của một số hợp chất alcaloit cũng được
xác định theo cách gián tiếp này.
4. Phản ứng khử ion kim loại về kim loại: Một số hợp chất hữu cơ khi tác
dụng với muối kim loại trong những điều kiện xác định, sẽ khử ion kim loại về
trạng thái kim loại tự do và phản ứng này có tính chất định lượng. Ví dụ như
phản ứng của chức andehyd với muối AgNO3 trong môi trường NH3 ( thuốc thử
Tulene ). Tính chất này đã được áp dụng để phân tích các hợp chất hữu cơ có
nhóm -CHO bằng phép đo AAS như sau: cho andehyd tác dụng với lượng dư
AgNO3 để toàn bộ lượng andehyd trong mẫu phản ứng với AgNO3 giải phóng ra
Ag kim loại, tách Ag kim loại, hòa tan nó trong axit HNO3 và xác định Ag bằng
67
phép đo AAS theo vạch phổ Ag-328.1nm, rồi từ đó tính ra hàm lượng andehyd
trong mẫu phân tích. Vì trong điều kiện này, cứ 1 nhóm -CHO thì giải phóng ra
1 nguyên tử Ag kim loại.
Ngoài ra, để phân tích gián tiếp còn có một số phương pháp khác như:
dựa vào khả năng làm tăng hay giảm cường độ hấp thụ của một vạch phổ của
một nguyên tố nào đó và sự tăng hay giảm này là tuyến tính trong một giới hạn
nhất định của nồng độ của chất phân tích, ví dụ với dung dịch nền Mg 10μg/ml
thì ion F- làm giảm cường độ hấp thụ của vạch phổ Mg- 285.2nm còn với dung
dịch nền Cr 1300μg/ml thì ion F- làm tăng cường độ hấp thụ của vạch phổ Cr-
360.1nm.
68
Chương 4. PHƯƠNG PHÁP QUANG PHỔ PHÁT XẠ NGUYÊN TỬ
( ATOMIC EMISION SPECTROMETRY - AES )
4.1. Phân tích định tính bằng phép đo AES
4.1.1. Nguyên tắc chung
Như chúng ta đã biết, khi cung cấp năng lượng để hóa hơi, nguyên tử hóa
mẫu và kích thích đám hơi nguyên tử đó đi đến phát xạ thì chúng ta sẽ thu được
phổ phát xạ nằm trong dải phổ quang học ( 190 - 1100nm ) của mẫu phân tích,
bao gồm ba thành phần:
1. Phổ vạch của nguyên tử và ion
2. Phổ đám của phân tử và nhóm phân tử
3. Phổ nền liên tục
Trong ba thành phần này thì phổ vạch là thành phần chính đặc trưng cho
nguyên tử và ion ở trạng thái hơi tự do khi bị kích thích, gọi là các vạch phổ
phát xạ đặc trưng của loại nguyên tố ấy. Ví dụ khi bị kích thích:
- Nguyên tử Al phát ra vạch đặc trưng: 308.2nm; 309.3nm
- Nguyên tử Cu phát ra vạch đặc trưng: 324.8nm; 327.4nm
- Nguyên tử Mn phát ra vạch đặc trưng: 259.4nm; 269.6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TaiLieuTongHop.Com---80524321-Bai-giang-Phan-tich-cong-cu.pdf