S là nguyên tố có hàm lượng cao thứ 13 trong vỏ quả đất, hàm lượng trung bình từ 0,06 - 0,10 %. Các khoáng trong đá và đất có chứa S chính là gypsum (CaSO4.2H2O), epsomite (MgSO4.7H2O), mirabilite (Na2SO4.10H2O), pyrite (FeS2), sphalerite (ZnS), chalcopyrite (CuFeS2), và cobaltite (CoAsS). Các khoáng sulfides quan trọng khác bao gồm pyrrhotite (Fe11S12), galena (PbS), arsenopyrite (FeS2.FeAs2), và penlandite (Fe,Ni)9S8, được tìm thấy trên khắp thế giới.
Các khoáng silicate thường chứa hàm lượng < 0,01 % S; tuy nhiên S có thể có hàm lượng rất cao trong khoáng biotite, chlorite, và các loại khoáng có cấu trúc dạng tầng. Hàm lượng S trong các loại đá phún xuất thường biến đổi từ 0,02 - 0,07 %. Hàm lượng S trong các loại đá trầm tích biến đổi từ 0,02 - 0,22 %; vì thế các loại đất phát triển trên đá trầm tích thường chứa hàm lượng S khá cao.
Lưu huỳnh (S) nguyên tố hiện diện trong các trầm tích biển, trầm tích núi lửa, và các trầm tích được kết hợp với calcite và gypsum. Ngoài ra còn có một lượng S lớn dạng khí được giải phóng trong thời gian hoạt động của núi lửa và dạng hydrogen sulfide (H2S) của núi lửa, thủy nhiệt, và sinh học. Hydrogen sulfide, một nguồn S quan trọng, nhưng là chất gây nhiễm bẩn trong nhiều vùng khí tự nhiên. Các hợp chất hữu cơ có chứa S gồm dầu mỏ thô, than đá.
Nguồn gốc của S trong đất là các sulfide kim loại trong các loại đá. Khi các loại đá bị phong hóa, các khoáng phân rã và S2- giải phóng sẽ bị oxi hoá thành SO42-. SO42- sau đó hình thành các dạng muối SO42- hòa tan, hoặc không hòa tan trong các vùng khí hậu khô hay bán khô hạn, hoặc được hấp thụ bởi các sinh vật, bị khử bởi các vi sinh vật khác thành S2- hay S0 trong điều kiện yếm khí. Một số SO42- khác được hình thành trong thời gian phong hóa các khoáng được tìm thấy trong nước tiêu, rửa trôi. Nước biển chứa xấp xỉ 27.000 ppm SO42-. Trong các sông hồ tự nhiên khác, SO42- biến động trong khoảng 0,5-50 ppm, nhưng cũng có thể đạt đến 60.000 ppm (6 %) trong các hồ và các vùng trầm tích mặn cao.
19 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Các nguyên tố dinh dưỡng và phân bón trung lượng - Bài 1: Các nguyên tố dinh dưỡng và phân bón trung lượng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
monia lỏng khan để sản xuất phân hỗn hợp.
Sulfuric acid đã được bón trực tiếp cho các cây trồng như củ hành và tỏi với mục đích kiểm soát cỏ dại.
Các dung dịch huyền phù có chứa S0 nguyên tố.
Bón trực tiếp và bón cùng lúc với các loại phân khác, bón vài tháng trước khi cây bắt đầu sinh trưởng.
Nếu bón lót hay bón ngay khi gieo trồng, nên bón thêm SO42- (15 – 10 % tổng số S).
Các dung dịch huyền phù có chứa muối sulfate.
Có thể có hiệu quả ở bất cứ thời gian bón nào.
Nơi rửa trôi mạnh nên bón ngay trước khi gieo trồng hay ngay trong thời kỳ cây sinh trưởng.
II Calcium
2.1 Dạng Ca trong đất được sử dụng bởi cây trồng
Calcium được cây trồng hấp thu dưới dạng Ca2+ từ dung dịch đất và Ca2+ được di chuyển đến bề mặt rễ do cơ chế dòng chảy khối lượng và tiếp xúc trực tiếp. Hiện tượng thiếu Ca trên cây trồng thường không phổ biến nhưng có thể xảy ra trên các loại đất chua, rửa trôi mạnh và không được bón vôi. Trong đất chứa nhiều Ca2+ thường có sự tích lũy Ca xung quanh vùng rễ.
Ca2+ trong dung dịch của các loại đất vùng ôn đới biến thiên từ 30 – 300 ppm. Nhưng trong các vùng có lượng mưa cao hơn, nồng độ Ca2+ sẽ thay đổi từ 8 – 45 ppm và thường trung bình là 33 ppm. Với nồng độ 15 ppm trong dung dịch có thể đủ cho năng suất cây trồng cao.
Nồng độ Ca2+ trong đất thường cao hơn nhu cầu cho sự sinh trưởng của cây trồng do nồng độ cao ít ảnh hưởng đến sự hấp thu Ca2+, bởi vì sự hấp thu Ca2+ bị kiểm soát chủ yếu bởi đặc tính di truyền của cây trồng. Mặc dù nồng độ Ca2+ trong dung dịch đất thường lớn hơn khoảng 10 lần so với nồng độ K+, nhưng lượng Ca2+ hấp thu luôn thấp hơn K+. Do khả năng hấp thu Ca2+ của rễ cây trồng bị giới hạn ở các chóp rễ còn non trong đó các màng tế bào của nội bì vẫn còn chưa bị hóa gỗ.
Các điều kiện cản trở sự hình thành rễ mới sẽ làm giảm sự vươn dài của rễ cây tiếp cận với Ca2+ và gây ra tình trạng thiếu Ca. Các vấn đề có liên quan đến sự hấp thu không đủ Ca2+ dường như chỉ xảy ra với các cây trồng có hệ thống rễ nhỏ so với các cây có hệ thống rễ phát triển rộng hơn.
Trong nông nghiệp, chúng ta cần quan tâm đặc biệt đến nhu cầu Ca2+ của một số cây trồng nhất định, như đậu phộng, cà chua, cần tây vì các loại cây này thường không đủ khả năng hấp thu Ca2+ từ đất, mặc dù các loại đất này có khả năng cung cấp đủ Ca2+ cho các loại cây trồng khác. Cung cấp Ca2+ thích hợp có tầm rất quan trọng đối với các loại cây như cỏ họ đậu, bắp cải, khoai tây và củ cải đường là những cây có nhu cầu Ca2+ cao.
2.2 Hàm lượng Ca trong đất
Hàm lượng Ca trong vỏ quả đất khoảng 3,64 %; tuy nhiên, hàm lượng này khác nhau rất lớn giữa các loại đất. Các loại đất cát trong vùng nhiệt đới ẩm thường có hàm lượng Ca2+ rất thấp trong khi các loại đất trong vùng ôn đới ẩm, nồng độ Ca2+ thường biến động trong khoảng 0,7 – 1,5%, Tuy nhiên, các loại đất phong hóa mạnh trong vùng nhiệt đới ẩm có thể chứa ít hơn 0,1 – 0,3 % Ca. Hàm lượng Ca trong đất đá vôi thay đổi từ 25 %. Khi nồng độ Ca xấp xỉ 3 % chứng tỏ trong đất có sự hiện diện của CaCO3.
Ca trong đất có nguồn gốc từ các loại đá và khoáng. Khoáng plagioclase anorthite (CaAl2Si2O3) là nguồn Ca chính quan trọng nhất, mặc dù pyroxenes (augite) và amphiboles (hornblende) cũng khá phổ biến trong đất. Một hàm lượng nhỏ Ca cũng có thể có nguồn gốc từ biotite, apatite, và 1 số borosilicates.
Hàm lượng Ca trong các loại đất vùng khô hạn thường cao, bất kể sa cấu, điều này do các vùng này ít mưa và rửa trôi không đáng kể. Calcite (CaCO3) thường chiếm tỉ lệ cao trong việc cung cấp Ca trên các loại đất vùng khô hạn và bán khô hạn. Dolomite [CaMg)CO3)2] cũng có thể hiện diện cùng với CaCO3. Trong một số loại đất vùng khô hạn, calcium sulfate hay gypsum (CaSO4.2H2O) cũng có thể hiện diện.
Sự biến chuyển của Ca2+ trong dung dịch đất tương đối ít phức tạp hơn so với K+. Ca2+ có thể (1) bị mất theo nước tiêu, (2) được hấp thụ bởi vi sinh vật, (3) được hấp phụ trên CEC, hay (4) bị kết tủa thành những hợp chất Ca thứ sinh, đặc biệt là trong các vùng khí hậu khô.
Theo qui luật chung, các loại đất ở vùng ẩm, sa cấu thô, hình thành từ các đá có chứa các khoáng chứa Ca thấp. Do đó, hàm lượng Ca trên các loại đất này thường thấp. Các loại đất có sa cấu mịn và được hình thành từ các loại đá có chứa các loại khoáng mang Ca cao thường có hàm lượng Ca trao đổi và tổng số cao. Tuy nhiên, trong các vùng khí hậu ẩm, ngay cả các loại đất hình thành trên đá vôi cũng thường bị hóa chua trong các tầng đất mặt vì Ca và các cations khác bị mất do rửa trôi mạnh. Khi nước có chứa CO2 hòa tan được thấm lậu vào trong đất, H+ được hình thành sẽ thay thế Ca2+ (và các cations base khác) trên phức hệ trao đổi. Nếu nước này thấm lậu nhanh đất sẽ hóa chua theo thời gian.
Hiện tượng thiếu Ca thường ít khi xảy ra trên các loại đất sản xuất nông nghiệp vì phần lớn các loại đất chua thường vẫn chứa hàm lượng Ca2+ đủ cho cây trồng sinh trưởng. Phổ biến trong sản xuất cây trồng là sự thiếu hụt gián tiếp do hàm lượng Ca2+ thấp xuất hiện trên cây ăn quả và các bộ phận dự trữ của cây trong thời kỳ sinh trưởng nhanh nhưng sự cung cấp Ca2+ bên trong nội tại của cây bị giới hạn.
2.3 Tính chất của Ca trong đất
Ca trong các loại đất chua, vùng khí hậu ẩm thường hiện diện phần lớn ở dạng trao đổi và trong các khoáng nguyên sinh. Hầu hết các loại đất này, các ions Ca2+, Al3+, và H+ chiếm ưu thế trong phức hệ trao đổi. Cũng như các cation khác, các dạng Ca2+ trong dung dịch và Ca2+ trao đổi luôn ở trạng thái cân bằng động. Nếu nồng độ Ca2+ trong dung dịch giảm do sự rửa trôi hay cây trồng lấy đi, Ca2+ từ trên bề mặt hấp phụ trao đổi sẽ giải phóng để tái cung cấp Ca2+ cho dung dịch. Các cations khác, như H+ và/hay Al3+, sẽ chiếm các vị trí trao đổi được để lại do sự giải phóng của Ca2+. Ngược lại, nếu Ca2+ trong dung dịch tăng, sự cân bằng sẽ thay đổi theo hướng ngược lại, hậu quả là 1 số Ca2+ bị hấp phụ bởi phức hệ trao đổi.
Trong các loại đất không chứa các khoáng CaCO3, CaMg(CO3)2, hay CaSO4, hàm lượng Ca2+ trong dung dịch đất được kiểm soát bởi hàm lượng Ca2+ trao đổi. Các yếu tố quan trọng nhất của đất quyết định sự hữu dụng của Ca2+ đối với cây trồng là:
Ca tổng số, pH đất, CEC, % Ca2+ bão hòa trên CEC, loại keo đất, tỉ lệ Ca2+ với các cation khác trong dung dịch.
Đất cát, chua với CEC thấp thường hàm lượng Ca tổng số rất thấp và không thể thoả mãn Ca2+ hữu dụng cho cây. Trên những loại đất này có thể cần thiết phải bổ sung Ca, đồng thời phải hiệu chỉnh độ chua của đất. Hoạt độ H+ cao (pH đất thấp) sẽ cản trở sự hấp thụ Ca2+. Ví dụ, khi pH xuống thấp từ 5,6 đến 4,0, nồng độ Ca2+ được yêu cầu phải cao hơn nhiều để rễ đậu nành sinh trưởng bình thường.
Trong các loại đất chua, Ca thường không dễ dàng hữu dụng cho cây trồng nếu đất có độ bão hòa Ca thấp. Ví dụ, một loại đất có CEC thấp và chỉ có 1000 ppm Ca2+ trao đổi nhưng có % Ca bão hòa cao có thể cung cấp Ca2+ cho cây trồng nhiều hơn so với đất có Ca2+ trao đổi là 2.000 ppm nhưng có % Ca bão hòa thấp trên CEC.
Độ bão hòa Ca2+ cao chỉ thị pH thích hợp cho sự sinh trưởng của cây trồng và hoạt động của vi sinh vật. Khi Ca có độ bão hòa cao luôn có nghĩa là các cations gây độc cho cây như Al3+ trong đất chua và Na+ trong đất mặn sẽ có nồng độ thấp. Nhiều cây trồng sẽ có phản ứng với việc bón Ca khi % Ca bão hòa thấp hơn 25 %. Ca2+ bão hòa 40 % - 60 % sẽ làm giảm năng suất bông vải.
Loại sét trong đất cũng có ảnh hưởng đến sự hữu dụng của Ca2+; các sét 2:1 yêu cầu có độ bão hòa Ca2+ cao hơn so với sét 1:1. Đặc biệt là sét montmorillonite yêu cầu độ bão hòa Ca2+ > 70 % mới cung cấp đủ Ca hữu dụng cho cây, trong khi đó các sét kaolinite có khả năng cung cấp đủ Ca2+ ở độ bão hòa Ca2+ 40 – 50 %.
Khi tăng nồng độ Al3+ trong dung dịch đất sẽ làm giảm sự hấp thụ Ca2+ của bắp, bông vải, đậu nành và lúa mì. Cũng như Ca2+, nồng độ Al3+ trong dung dịch của các loại đất khoáng được kiểm soát bởi % độ bão hòa của chúng trên CEC. Nhưng với các loại đất hữu cơ, hàm lượng trên CEC trao đổi quyết định hàm lượng Al3+ trong dung dịch đất hơn là % độ bão hòa.
Sự hữu dụng và hấp thụ Ca đối với cây trồng cũng bị ảnh hưởng bởi tỉ lệ giữa Ca2+ và các cations khác trong dung dịch đất. Tỉ lệ Ca/tổng cation từ 0,10 - 0,15 có thể cung cấp đủ Ca2+ cho phần lớn cây trồng.
Sự hấp thu Ca2+ bị giảm khi hàm lượng NH4+, K+, Mg2+, Mn2+ , và Al3+ cao, nhưng sự hấp thu Ca2+ sẽ tăng khi cây trồng được cung cấp NO3—N. Sự dinh dưỡng với nồng độ NO3- cao sẽ làm tăng cường sự tổng hợp anion hữu cơ và dẫn đến sự tích lũy các cations trong cây, đặc biệt là Ca2+.
2.4 Hiện tượng mất Ca trong đất
Khi có sự rửa trôi xảy ra, Na+ là ion dễ dàng bị mất nhất, sau đó là Ca2+; nhưng vì trong phần lớn các loại đất, hàm lượng Ca2+ trong dung dịch và trao đổi thường lớn hơn rất nhiều so với Na+, nên lượng Ca2+ bị mất lớn hơn nhiều so với Na+. Ca thường là cation chiếm tỉ lệ cao trong nước tiêu, sông suối, và hồ.
2.5 Các loại phân Calcium
Calcium không phải luôn được sản xuất dưới dạng phân bón hỗn hợp hay riêng biệt, nhưng thường hiện diện như là một thành phần phụ của của các loại phân bón khác, đặc biệt là phân P. Super lân đơn (SSP) và super lân kép (TSP) đều có chứa 18 - 21 và 12 – 14 % Ca. Nồng độ Ca trong Ca(NO3)2 khoảng 19 %. Các chelates tổng hợp như CaEDTA chứa khoảng 3 – 5 % Ca, trong khi đó một số phức chất tự nhiên được dùng như là các chất mang các nguyên tố dinh dưỡng vi lượng có chứa khoảng 4 – 12 % Ca. Ca trong chelate cũng có thể dùng phun lên lá cây trồng. Đá phosphate có chứa 35 % Ca, và khi được bón với liều lượng cao cho các loại đất nhiệt đới chua, sẽ cung cấp một lượng Ca rất lớn.
Nguồn nguyên liệu chính để dùng làm phân bón Ca là các vật liệu có chứa vôi như CaCO3 (đá vôi),CaMg(CO3)2 (dolomite) và các vật liệu khác được dùng để trung hòa độ chua của đất. Trong trường hợp nơi Ca chỉ được yêu cầu cung cấp cho cây trồng nhưng không cần để hiệu chỉnh độ chua của đất ta có thể dùng gypsum.
Gypsum (thạch cao, CaSO4.2H2O) được tìm thấy nhiều nơi trên thế giới. Có một lượng lớn gypsum là sản phẩm trung gian được hình thành trong nhà máy sản xuất phosphoric acid.
Gypsum là phân Ca phổ biến dùng bón cho đậu phộng ở Mỹ và được bón trực tiếp cho cây ở giai đoạn ra hoa. Một số nước châu Phi, CaSO4 có trong phân super lân được bón cho đậu phộng có thể cung cấp cả S và Ca cho cây. Gypsum có ảnh hưởng rất ít đến pH đất; vì thế nên có thể có giá trị trên cây trồng cần một độ chua nhất định và cần Ca cao. Gypsum được sử dụng rất phổ biến trên đất mặn trong các vùng khô hạn. Ca2+ thay thế Na+ trên phức trao đổi, và Na+ sau đó sẽ bị rửa trôi ra khỏi vùng rễ. Độ bão hòa Na+ giảm sẽ làm kết cụm các hạt đất và làm tăng khả năng thấm nước của đất.
III Magnesium (Mg)
3.1 Dạng Mg cây trồng sử dụng
Cây trồng hấp thụ Mg ở dạng Mg2+ từ dung dịch đất và Mg2+ di chuyển đến rễ cây do cơ chế dòng chảy khối lượng và khuếch tán. Lượng Mg2+ cây hấp thu do cơ chế tiếp xúc trực tiếp của rễ đối với Mg thấp hơn rất nhiều so với Ca2+. Hàm lượng Mg2+ cây trồng hấp thu thường thấp hơn Ca2+ hay K+. Nồng độ Mg2+ trong dung dịch đất trong vùng nhiệt ôn đới tiêu biểu khoảng 5 - 50 ppm, mặc dù có nơi đạt đến 120 – 2400 ppm.
Nhu cầu Mg2+ khác nhau tùy loại cây trồng. Đồng cỏ, bắp, khoai tây, cọ dầu, bông vải, cam quít, thuốc lá và củ cải đường là những cây có nhu cầu Mg2+ khá cao. Hiện tượng thiếu Mg thường xuất hiện trên táo trong những năm có năng suất cao.
Sự hấp thu và phản ứng đối với phân Mg cũng khác nhau giữa các giống cây trồng.
Do có sự tương tác giữa các điều kiện thời tiết và môi trường với các giống cây trồng nên có thể dẫn đến sự thiếu Mg trong từng điều kiện nhất định.
3.2 Hàm lượng Mg trong đất
Mg chiếm 1,93 % các thành phần của vỏ quả đất. Tuy nhiên, hàm lượng Mg2+ trong đất rất biến đổi, từ 0,1 % trong đất cát có sa cấu thô trong các vùng khí hậu ẩm cho đến 4 % trong đất có sa cấu mịn trong vùng khô hạn hay bán khô hạn được hình thành từ các mẫu chất có chứa Mg cao. Mg trong đất có nguồn gốc từ sự phong hóa các đá có chứa các khoáng nguyên sinh như biotite, dolomite, hornblende, olivine, và serpentite. Mg cũng được tìm thấy trong các khoáng sét thứ sinh như chlorite, illite, montmorillonite, và vermiculite. Epsomite (MgSO4.7H2O) và bloedite [Na2Mg(SO4)3.4H2O] có thể hiện diện trong đất khô hạn hay bán khô hạn với một hàm lượng rất lớn. Trong thời gian phong hóa khoáng, Mg được giải phóng vào dung dịch đất, nơi đây Mg có thể (1) bị mất theo nước thấm lậu, (2) bị hấp thu bới các sinh vật sống, (3) bị hấp phụ trên CEC, hay (4) bị kết tủa thành khoáng thứ cấp, chủ yếu trong các vùng khí hậu khô hạn.
Mg thường có hàm lượng thấp trong dung dịch đất do các khoáng sét bị phong hóa chậm, do sự rửa trôi và cây trồng hấp thu. Vermiculite có hàm lượng Mg cao, và có thể là nguồn Mg đáng kể trong các loại đất. Mg có thể bị thiếu trong các trường hợp như đất chua, có sa cấu thô, rửa trôi mạnh với CEC thấp; đất đá vôi phát triển trên mẫu chất có Mg thấp; đất chua được bón vôi nhưng vôi có hàm lượng Mg thấp; bón nhiều phân NH4+ hay K+; các cây trồng có nhu cầu Mg cao.
Sự dư thừa Mg cũng có thể xảy ra trong một số trường hợp đất hình thành trên đá nền là serpentite hay nơi chịu ảnh hưởng của nước ngầm có hàm lượng Mg cao. Sự dinh dưỡng Ca có thể bị phá vỡ khi Mg2+ trao đổi vượt quá Ca2+ trao đổi.
3.3 Tính chất của Mg trong đất
Mg hiện diện trong đất chủ yếu ở dạng phân ly trong dung dịch và trên bề mặt trao đổi. Cây trồng hấp thụ Mg phụ thuộc vào hàm lượng Mg2+ trong dung dịch, pH đất, độ bão hòa % Mg trên CEC, hàm lượng các ions trao đổi khác, và loại sét.
Cũng như K, nhưng ít phổ biến hơn, Mg có thể hiện diện trong đất dưới dạng chậm hữu dụng, dạng này cân bằng với Mg2+ trao đổi. Sự hình thành các dạng tương đối chậm hữu dụng này trong đất chua gia tăng khi có sự hiện diện của các hợp chất Mg hòa tan và sét 2:1. Mg2+ có thể bị giữ trong các tinh tầng của các loại khoáng có tính co trương mạnh.
Có thể có sự thay đổi rất lớn trong Mg2+ trao đổi sau khi đất được bón vôi có chứa Mg. Đầu tiên, nồng độ Mg2+ tăng, nhưng khi pH đạt gần trung tính nồng độ này sẽ giảm do sự cố định Mg2+ thông qua các phản ứng với silica hay aluminum chlorite và để cùng kết tủa với Al(OH)3.
Đất có sa cấu thô trong vùng khí hậu ẩm có tiềm năng thiếu Mg rất lớn. Các loại đất này thường chứa lượng Mg tổng số và trao đổi thấp. Đất có thể thiếu Mg khi hàm lượng Mg2+ trao đổi < 25 - 50 ppm.
Mg trao đổi thường chiếm khoảng 4 – 20 % CEC của đất, nhưng đất phát sinh trên đá serpentite, hàm lượng Mg2+ có thể cao hơn Ca2+. Độ bão hòa Mg ngưỡng cho sự sinh trưởng tối hảo của cây trồng thường trùng lấp trong khoảng này, nhưng trong phần lớn các trường hợp, độ bão hòa %Mg không được < 10 %.
Trên nhiều loại đất chua mạnh sự hấp thu Mg2+ của cây trồng bị giảm do nồng độ Al3+ trao đổi cao. Độ bão hòa Al 60 – 75 % thường đi kèm với sự thiếu hụt Mg. Sự hữu dụng của Mg2+ cũng có thể bị ảnh hưởng xấu do hoạt độ H+ cao trong đất hữu cơ chua, nơi mà Al3+ trao đổi không phải là nguyên nhân chính gây ra độ chua. Sự thiếu Mg cũng có thể xảy ra trong đất có tỉ lệ Ca/Mg trao đổi cao, khi tỉ lệ này vượt quá 10/1 đến 15/1. Trên các loại đất có sa cấu thô trong vùng ẩm, việc sử dụng liên tục các vật liệu vôi có chứa Ca cao có thể làm tăng tỉ lệ Ca/Mg và gây ra sự thiếu Mg trên một số cây trồng.
K trao đổi cao cũng có thể làm cản trở sự hấp thu Mg của cây trồng. Thông thường, tỉ lệ K/Mg được khuyến cáo là < 5/1 đối với phần lớn cây trồng, 3/1 đối với rau cải, và 2/1 đối với cây ăn quả và các cây trồng trong nhà kính.
Sự canh tranh giữa NH4+ và Mg2+ cũng có thể làm giảm sự hữu dụng của Mg2+ đối với cây trồng. Sự thiếu hụt Mg2+ gây ra do NH4+ xảy ra khi bón 1 lượng lớn phân NH4+ vào đất có Mg2+ trao đổi thấp. Sự tương tác này có thể là nguyên nhân của vấn đề tetany cho gia súc (bệnh co giật) của họ hòa thảo. Cơ chế của sự tương tác này có thể có liên quan đến H+ được giải phóng khi rễ cây hấp thụ NH4+, cũng như ảnh hưởng trực tiếp của NH4+.
3.4 Quá trình mất Mg trong đất
Cũng như Ca2+, Mg2+ có thể bị mất do rửa trôi (5 - 60 kgMg/ha/năm). Hàm lượng Mg mất phụ thuộc vào sự tương tác của nhiều yếu tố, bao gồm hàm lượng Mg trong đất, tốc độ phong hóa, cường độ rửa trôi, và sự hấp thu của cây trồng. Sự rửa trôi Mg2+ thường là vấn đề rất nghiêm trọng trên đất cát, đặc biệt là sau khi bón phân KCl và K2SO4. Rất ít xảy ra sự thay thế Mg2+ khi một lượng K tương đương được bón vào dưới dạng CO32-, HCO3-, hay H2PO4-. Có thể là sự giải phóng và rửa trôi Mg2+ trong đất có sa cấu thô được gia tăng do sự hiện diện của Cl- và SO42- hòa tan. Cùng với Ca2+, sự mất Mg do xói mòn cũng có thể rất nghiêm trọng trong một số loại đất.
3.5 Các loại phân Mg
Trái ngược với Ca, có một số loại phân bón chính có chứa Mg, ngoại trừ phân K2SO4. MgSO4. Dolomite được dùng phổ biến cho các loại đất chua có hàm lượng Mg thấp. K2SO4.MgSO4 và MgSO4 (muối Epsom) được dùng rộng rãi trong các công thức hình thành các loại phân dạng rắn. Các vật liệu khác có chứa Mg là magnesia (MgO, 55 % Mg), magnesium nitrate [Mg(NO3)2, 16%Mg], magnesium silicate (basic slag, 3 – 4 % Mg; serpentite, 26 % Mg), dung dịch magnesium chloride (MgCl2.10H2O, 8 - 8 % Mg), các chelates tổng hợp (2 - 4 % Mg), và các phức chất hữu cơ tự nhiên (4 – 9 % Mg).
MgSO4, MgCl2, Mg(NO3)2, và các chelates tổng hợp và tự nhiên dạng dung dịch rất thích hợp cho sử dụng phun lên lá. Sự thiếu hụt Mg trên các vườn cam quít thường được hiệu chỉnh bằng cách phun Mg(NO3)2 lên lá. Trong một số vùng trồng cây ăn quả, dung dịch MgSO4 được phun lên lá, và trong các vườn cây thiếu nghiêm trọng cần thiết phải phun trong nhiều năm.
K2SO4.MgSO4 được sử dụng rộng rãi dưới dạng huyền phù. Nồng độ huyền phù đặc biệt, dạng này có bán trên thị trường.
Grass tetany (bệnh co giật - bệnh phát sinh do thiếu Mg trong thức ăn)
Hàm lượng Mg thấp trong các đồng cỏ, có thể là một vấn đề nghiêm trọng trong 1 số đồng cỏ chăn nuôi. Trâu bò sử dụng cỏ có chứa Mg thấp sẽ bị bệnh hypomagnesia (giảm hàm lượng Mg), hay grass tetany, bệnh gây ra do hàm lượng Mg trong máu thấp không bình thường. Bón phân NH4+ hay K+ cao có thể làm giảm nồng độ Mg2+ trong mô cây. Ví dụ, hàm lượng Mg trong cây bắp non bị giảm đáng kể khi bón NH4+ so với bón NO3-. Grass tetany thường xảy ra trong mùa xuân, lúc N vẫn có thể còn ở dạng NH4+, đặc biệt là nếu thời tiết lạnh. Ngoài ra, hàm lượng protein cao của cỏ khi tiêu hoá (và các thức ăn khác) sẽ làm giảm sự hấp thụ Mg bởi động vật.
Hàm lượng Mg cũng có thể tăng do sử dụng đá vôi dolomite, hay do việc sử dụng các loại phân bón có chứa Mg. Vì vậy các cây họ đậu trồng trong hệ thống đồng cỏ được khuyến cáo là những cây này có nhu cầu Mg cao hơn các cây họ hòa thảo. Trâu bò cũng có thể ăn muối Mg để chống lại bệnh grass tetany.
Mặc dù một số nhà nghiên cứu cho rằng hypomagnesia là kết quả của sự bón thừa phân N hay K, nhưng ta xem bệnh này do thiếu Mg để xử lý thích hợp hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baigiangphanbovadophichuong_6_2704.doc