Các đặc điểm khái quát của pháp luật trên thế giới và quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật

Quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật,

cũng như trongcác lĩnh vực khác của đời sống xã hội

đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực

tiễn cần được lý giải tường tận. Trên bình diện lý

luận, để phục vụ cho quá trình hợp tác, hội nhập

trong lĩnh vực pháp luật có hiệu quả, trước hết cần

phải làm rõ các đặc điểm khái quát của pháp luật trên

thế giới. Bởi lẽ điều đó có ý nghĩa nhận thức, lý luận

và thực tiễn rất quan trọng đối với hướng “tiếp nhận”

pháp luật quốc tế, pháp luật của quốc gia khác và

“đưa” pháp luật của chúng ta ra bên ngoài.

pdf38 trang | Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Các đặc điểm khái quát của pháp luật trên thế giới và quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC ĐẶC ĐIỂM KHÁI QUÁT CỦA PHÁP LUẬT TRÊN THẾ GIỚI VÀ QUÁ TRÌNH HỢP TÁC, HỘI NHẬP TRONG LĨNH VỰC PHÁP LUẬT VÕ KHÁNH VINH Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và pháp luật, UBKHXH & NVQG Quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật, cũng như trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần được lý giải tường tận. Trên bình diện lý luận, để phục vụ cho quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật có hiệu quả, trước hết cần phải làm rõ các đặc điểm khái quát của pháp luật trên thế giới. Bởi lẽ điều đó có ý nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng đối với hướng “tiếp nhận” pháp luật quốc tế, pháp luật của quốc gia khác và “đưa” pháp luật của chúng ta ra bên ngoài. Đó là hai mặt biện chứng không thể thiếu được của quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật. Việc làm sáng tỏ các đặc điểm khái quát của pháp luật trên thế giới quy tụ lại ở việc làm rõ các vấn đề sau: 1. Trong thời đại ngày nay pháp luật thể hiện sự kết hợp “yếu tố dân tộc”, “yếu tố quốc tế” và “yếu tố tự phát triển” như thế nào? 2. Ở phạm vi toàn thế giới pháp luật có các khuynh hướng phát triển chung như thế nào? 3. Các hệ thống pháp luật trên thế giới có sự khác biệt như thế nào? 1. Sự kết hợp “yếu tố dân tộc”, “yếu tố quốc tế” và “yếu tố tự phát triển” trong pháp luật – cơ sở của sự hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật: 1.1. Đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa trên thế giới ngày nay rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Do vậy, không thể hình dung được cuộc sống của con người, của các dân tộc, của các quốc gia khi không có pháp luật. Trong thời đại ngày nay hiện tượng pháp luật đi vào đời sống của xã hội hiện đại một cách dễ dàng trông thấy và rất vững chắc, thể hiện như một giá trị của xã hội, như cái điều chỉnh hành vi của con người, như cái bảo đảm cho sự ổn định của các quan hệ xã hội, như phương tiện để tiến hành các cuộc cải cách, đổi mới và biến đổi xã hội. Bởi vậy pháp luật ngày càng được các giới khác nhau quan tâm nghiên cứu, đó không chỉ là các nhà luật học mà còn cả các nhà triết học, sử học, chính trị học, xã hội học, các nhà quản lý…. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các tư tưởng pháp luật và các hệ thống pháp luật của các dân tộc và quốc gia khác nhau có mối liên hệ và tương quan với nhau như thế nào, các quan niệm pháp lý nào ở các vùng khác nhau trên thế giới có thể khái quát lại thành các đặc điểm chung đặc trưng cho bức tranh của sự phát triển pháp luật chung của cộng đồng thế giới không chỉ trở thành vấn đề mang tính cấp thiết và thời sự mà còn tạo ra cơ sở phương pháp luận cho quá trình hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật. 1.2. Việc nghiên cứu mối tương quan và sự kết hợp “yếu tố dân tộc”, “yếu tố quốc tế” và “yếu tố tự phát triển” trong pháp luật đòi hỏi phải làm rõ chính xác hơn vấn đề về vai trò của Nhà nước trong quá trình hình thành pháp luật, dù rằng vấn đề về mối tương quan giữa Nhà nước và pháp luật đã được nghiên cứu khá kỹ lưỡng trong sách báo khoa học pháp lý. Ở đây chúng tôi muốn khẳng định rằng pháp luật có “sự tự phát triển đặc thù” của mình. Nhiệm vụ đặt ra ở đây là làm sáng tỏ vấn đề pháp luật từng đất nước, pháp luật từng quốc gia chịu sự tác động của pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế như thế nào? Theo chúng tôi trong thế kỷ XX sự tương quan của các nhân tố hình thành pháp luật đó đã thay đổi theo hướng khẳng định vai trò ngày càng lớn lên của nhân tố sau cùng, dù hai nhân tố đầu vẫn có được ý nghĩa ổn định. Từ cách đặt vấn đề như vậy chúng ta cần làm rõ vấn đề Nhà nước đóng vai trò như thế nào trong sự hình thành và phát triển pháp luật. Từ lâu mối liên hệ hữu cơ giữa Nhà nước và pháp luật đã được làm sáng tỏ. Khái quát lại có thể thấy vai trò của Nhà nước được thể hiện như sau: 1- Chính Nhà nước có chủ quyền trong lĩnh vực pháp luật, chỉ có các cơ quan của Nhà nước mới có thẩm quyền ban hành luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác; 2- Nhà nước xác định nội dung quy phạm của pháp luật khi đó các lợi ích xã hội khác nhau được cụ thể hóa, được cân bằng thành các công thức đáp ứng các lợi ích của giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội, dân tộc, … và chúng trở thành bắt buộc chung; 3- Về mặt thực tế, Nhà nước xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và quy định mục đích, trật tự và thủ tục của hoạt động xây dựng pháp luật trong đất nước, bảo vệ về mặt tư tưởng pháp luật của mình; 4- Nhà nước bảo đảm cho các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác được hoạt động và bảo đảm pháp chế; 5- Nhà nước tiến hành và sử dụng các chế độ pháp lý đáp ứng lợi ích bên trong của đất nước và lợi ích của đất nước trên trường quốc tế – thực hiện các ưu đãi, chế độ thuế quan bảo hộ (chính sách bảo hộ mậu dịch) hay hạn chế ưu đãi hay không thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch; tiến hành xây dựng một hệ thống pháp luật “mở” hoặc một hệ thống pháp luật “đóng”; bảo vệ hệ thống pháp luật đó; 6- Nhà nước có thể chủ trương việc làm xích lại gần nhau các văn bản pháp luật quốc gia và mở rộng vùng ảnh hưởng của pháp luật quốc tế đối với hệ thống pháp luật của mình. Mối tương quan của pháp luật và Nhà nước bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể đối với các quốc gia cùng chế độ và các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau. Việc phân kiểu Nhà nước có ảnh hưởng đến hệ thống và tính chất của pháp luật quốc gia, đến khối lượng, phương pháp và nội dung của sự điều chỉnh pháp luật. Nếu lấy cơ cấu quyền lực và tính chất của mối quan hệ quyền lực làm cơ sở phân loại các Nhà nước, thì lúc đó có thể làm sáng tỏ một cách đúng đắn hơn “mức độ phát sinh” trong pháp luật với kiểu Nhà nước. Cơ cấu và chính sách của Nhà nước ảnh hưởng một cách cơ bản đến khối lượng và mức độ phản ánh các lợi ích xã hội khác nhau, mức độ tự do và tính độc lập của công dân, của các nhà doanh nghiệp, của báo chí, của các tổ chức xã hội trong pháp luật, ảnh hưởng đến các bảo đảm pháp luật. Khi so sánh các quan điểm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật hay tiến hành hợp tác hội nhập trong lĩnh vực pháp luật cần phải cân nhắc vai trò của nhân tố Nhà nước một cách đầy đủ – đó là các vai trò tích cực hay không tích cực. 1.3. Ngoài ra, ta còn thấy pháp luật là sản phẩm, là “sự sáng tạo của chính xã hội”. Các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, ý thức pháp luật là những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của pháp luật. Như mọi người đều thấy sự phát triển của các văn bản quy phạm pháp luật bao giờ cũng diễn ra trong môi trường xã hội được thay đổi; chịu sự ảnh hưởng của những cuộc cách mạng, của những cuộc cải cách, đổi mới; chịu sự ảnh hưởng của những thay đổi trong nền kinh tế và trong quản lý Nhà nước, của những thay đổi trong cơ chế quyền lực, của những thay đổi trong ý thức xã hội và hành vi của con người. Chính những nhân tố đó là những “xung lượng” hình thành pháp luật và chúng thường xuyên xuất phát từ xã hội. Có thể lấy những thay đổi trong hệ thống pháp luật ở nước ta trong thời gian qua làm ví dụ. Đó là nhu cầu đổi mới trong lĩnh vực kinh tế quyết định sự cần thiết ban hành một loạt văn bản luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác, thiết lập chế độ sở hữu đa thành phần, quy chế pháp lý mới của các chủ thể kinh doanh, điều chỉnh các quan hệ tài chính – tín dụng và các quan hệ về thuế. Tiếp đến chúng ta cần làm rõ các nhân tố khác nhau có ảnh hưởng như thế nào đến pháp luật. Ở đây, theo lôgich của chủ nghĩa duy vật lịch sử chúng ta đặt lên hàng đầu vai trò của các quy luật khách quan – các quy luật mà nhà làm luật cần phải nhận thức và “nắm bắt”. Nhận thức và phản ảnh các quy luật khách quan được coi là cơ sở khách quan đầu tiên của hoạt động xây dựng pháp luật. Các nhu cầu xã hội đòi hỏi phải được thỏa mãn với sự hỗ trợ của pháp luật thông thường được tiếp nhận dưới dạng khái quát. Các quan hệ thuộc hạ tầng cơ sở, các quan hệ sản xuất bao giờ cũng được coi là cái đóng vai trò quyết định, do vậy, trong nhiều trường hợp dẫn đến việc không đánh giá hết các biểu hiện của nhân tố chủ quan trong hoạt động xây dựng pháp luật. Lý luận về các nhân tố không được tiếp nhận tích cực. Thời gian gần đây, trong khoa học pháp lý đã có thái độ tích cực hơn đối với lý luận về các nhân tố. Xã hội học pháp luật đã mở ra con đường cho việc phân tích và đánh giá một cách xác thực và cởi mở các quá trình và hiện tượng ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Người ta xem xét hoạt động của pháp luật như một hệ thống xã hội nhiều nhân tố, trong đó các nhân tố khác nhau được liên kết với nhau một cách chặt chẽ. Ở đây có một bước tiến mới trong nhận thức là coi quá trình xây dựng pháp luật như một quá trình có định hướng mục đích được lập luận vững chắc. Trong quá trình đó các nhân tố khách quan và các nhân tố chính trị – xã hội được làm rõ. Trong các công trình nghiên cứu những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã dành sự chú ý đến việc làm sáng tỏ các nhân tố cơ bản quyết định sự hình thành pháp luật. Đó là các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, dân tộc, tư tưởng, những nhân tố phi chính trị. Khía cạnh nhận thức thông tin cũng được làm rõ. Ở đây, cần phải lưu ý và nhấn mạnh rằng hoàn cảnh chung trong đất nước có tác động đến tính ổn định của các văn bản quy phạm pháp luật. Đó là tính vững mạnh của quyền lực (ổn định về chính trị), sự tăng trưởng kinh tế vững chắc, sự ổn định về mặt xã hội, là hệ thống pháp luật phát triển và không có các mâu thuẫn giữa các ngành và chế định của nó, là việc thừa nhận pháp luật như công cụ để giải quyết các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và các nhiệm vụ khác, là uy tín cao của pháp luật và việc thừa nhận trên thực tế tính tối cao của luật, là sự tuân thủ nghiêm chỉnh, thường xuyên các nguyên tắc và quy phạm pháp luật. Việc phân loại các nhân tố dựa vào tính chất ảnh hưởng của chúng cho phép chúng ta làm sáng tỏ được các nhân tố ở bên ngoài hệ thống pháp luật. Việc nghiên cứu các quá trình đang diễn ra trong đời sống xã hội và các khuynh hướng của chúng đưa ra cơ sở để chúng ta nắm bắt kịp thời nhu cầu tiến hành “những thay đổi pháp luật”. Nhiều trong số các nhân tố đó có ý nghĩa là các nhân tố hình thành pháp luật, vì trong các nhân tố đó sản sinh ra khách thể của sự điều chỉnh pháp luật tương lai. Cần lưu ý đến các đặc điểm về thời gian tồn tại của các nhân tố. Có một số nhân tố tồn tại một cách thường xuyên, vững chắc, đó là nhân tố về chế độ chính trị và định hướng chính trị, quyền lực, chế độ kinh tế, thái độ của dân cư và của chính quyền đối với pháp luật… có một số nhân tố tồn tại không lâu. 1.4. Tiếp đến chúng ta làm rõ vai trò của nhân tố “tự phát triển” của pháp luật với tính cách là một hiện tượng xã hội có tính độc lập và ổn định đặc thù. Các nhân tố đó thể hiện nguyên tắc đặc trưng cho hệ thống pháp luật, các mục đích của hoạt động xây dựng pháp luật, của việc xây dựng và hoạt động của hệ thống pháp luật, các mối liên hệ và sự phụ thuộc bên trong của hệ thống đó, “lôgich” xây dựng và phát triển của các ngành luật, các tiểu ngành luật, của toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung. Việc coi thường hoặc sử dụng không đúng các nhân tố đặc trưng bên trong của hệ thống pháp luật viện cớ vì các nhân tố khách quan này hay các nhân tố khách quan khác sẽ làm cho hệ thống pháp luật có sự mâu thuẫn bên trong và không có trật tự về cấu trúc. Có thể coi là các nhân tố bên trong của pháp luật cả những nhân tố mang tính chất thủ tục. Một số nhân tố được thể hiện ở giai đoạn tiền chuẩn bị, chuẩn bị và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Các nhân tố đó là sự lựa chọn các phương tiện đảm bảo về mặt pháp luật đối với các cuộc cải cách, áp lực của dư luận xã hội, sự ảnh hưởng của quá trình dân chủ hóa. Các nhân tố khác thể hiện ở giai đoạn thực hiện pháp luật. Đó là sự hiểu biết pháp luật của nhân dân, sự ủng hộ hoặc không ủng hộ đối với các văn bản quy phạm pháp luật, các quan điểm chống đối pháp luật, việc không chấp hành pháp luật của những người có chức vụ, quyền hạn, của công dân, việc làm sáng tỏ mục đích của các văn bản quy phạm pháp luật, việc áp dụng đúng đắn các văn bản đó. Việc phân ra các nhân tố nói trên và xác định trọng lượng hiện thực của nó ở từng giai đoạn là cơ sở để lập luận tính khoa học của các văn bản quy phạm pháp luật và là điều kiện bảo đảm hiệu quả của chúng. Tiếp đến cũng cần phải cân nhắc cả những biểu hiện của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Ở đây chúng tôi muốn nói về hoạt động của các chủ thể có quyền sáng kiến lập pháp, về áp lực của dân cư và các mong đợi về mặt pháp luật của họ… Pháp luật là cơ sở tồn tại của mọi xã hội và của Nhà nước. Tuy vậy, vẫn còn vấn đề đặt ra là ở mức độ nào pháp luật nói chung và các văn bản quy phạm pháp luật nói riêng chịu sự ảnh hưởng của những thay đổi trong đời sống xã hội – pháp luật, bị thay đổi một cách tự động do có những thay đổi trong Nhà nước hay theo những quy luật riêng của mình; cần phải xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn toàn mới hay cho phép có sự kế thừa của nguyên tắc và của các ngành luật của hệ thống pháp luật; các cuộc cải cách, đổi mới được tiến hành có dẫn đến việc xây dựng lại một cách cơ bản hệ thống quy phạm pháp luật hay không, hay các cải cách, đổi mới đó bao gồm những thay đổi trong nhận thức về pháp luật, trong ý thức pháp luật và trong tính động cơ, trong các cơ quan pháp luật. Mỗi nước có cách trả lời riêng của mình về vấn đề đó. Một vấn đề được đặt ra hiện nay là các quốc gia có phản ứng như thế nào đối với những thay đổi liên tục đang diễn ra trên thế giới, bao gồm cả “lát cắt” pháp luật trong sự phát triển của thế giới. Nhưng tất cả những cái đó không phải diễn ra một cách tự phát, ở bên ngoài sự tham gia của các chủ thể là Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, các cơ quan pháp luật. Trong nhận thức về pháp luật có thể phân ra các ranh giới khác nhau của pháp luật với tư cách là một hiện tượng xã hội phức tạp. Trong phạm vi nghiên cứu ở đây, dựa vào mức độ của sự hình thành theo cấu trúc, chúng ta có thể phân các bộ phận “cấu thành pháp luật” như sau: 1- Các họ pháp luật với tư cách là các nhóm thế giới quan về pháp luật bao gồm: nguồn gốc của pháp luật, các học thuyết pháp luật, lý luận xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật, các nghề luật của mình; 2- Các hệ thống pháp luật quốc gia, các văn bản quy phạm pháp luật của các quốc gia, các văn bản quy phạm pháp luật của các quốc gia nước ngoài với tư cách là các cấu thành có trật tự cơ cấu; 3- Các ngành pháp luật với nhóm các quy phạm pháp luật cùng loại được hình thành một cách có thứ bậc; 4- Các vùng pháp luật của các quốc gia liên minh; 5- Pháp luật quốc tế với các nguyên tắc và các quy phạm của mình. Tương ứng người ta cũng phân biệt các khái niệm phản ánh các hiện tượng đó. Để phác họa ranh giới hoạt động của các cấu thành pháp luật – quy phạm khác nhau và các chế độ pháp lý do các cấu thành đó thiết lập cần sử dụng các khái niệm sau: 1- Đối với các họ pháp luật nên dùng khái niệm “các vùng ảnh hưởng pháp luật”; 2- Đối với các vùng pháp luật của các quốc gia liên minh nên dùng khái niệm “không gian pháp luật”; 3- Đối với các hệ thống pháp luật trong phạm vi một quốc gia nên dùng khái niệm “lãnh thổ pháp lý – quốc gia”. Từng loại chế độ pháp lý đó có sử dụng sự phối hợp và hợp tác khác nhau về các văn bản quy phạm pháp luật, các hiệp định, về các phương thức điều chỉnh pháp luật – “mềm dẻo”, “hỗn hợp”, “chặt chẽ”, “phối hợp” v.v…. Tất cả các cấu thành pháp lý quy phạm nói trên phát triển không phải biệt lập. Ngược lại chúng có ảnh hưởng đến nhau. Các quan điểm pháp luật, thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật ở các nước cụ thể ở từng giai đoạn riêng biệt có thể chịu sự ảnh hưởng rất mạnh của các họ pháp luật, của các cộng đồng pháp luật của các quốc gia liên minh, của các yếu tố cụ thể của các họ pháp luật và cộng đồng pháp luật đó, chẳng hạn yếu tố đạo đức – tôn giáo. Việc phân tích trên cho thấy bức tranh pháp luật của thế giới là rất nhiều màu sắc, mang tính pha lẫn. Như vậy tính đa pháp luật vẫn luôn luôn tồn tại bởi có những nguyên nhân lịch sử – xã hội sâu sắc. Cùng với Nhà nước, pháp luật tạo điều kiện cho sự phát triển của các xã hội và của cộng đồng thế giới khi nó trao đổi các nguyên tắc, các ưu tiên, các hình thức quy phạm, mối tương quan của mình với các chế định, thiết chế Nhà nước và xã hội. Những gì vững chắc nhất, ổn định nhất đặc trưng cho pháp luật như một hiện tượng của đời sống xã hội bao giờ cũng được giữ gìn. Chúng tôi cho rằng có thể và cần phải nghiên cứu và so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau trong sự vận động của chúng để phục vụ cho nhu cầu hợp tác trong lĩnh vực pháp luật không chỉ vì tính ổn định và kế thừa, của sự tự phát triển của pháp luật, mà còn phải cân nhắc và phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, địa lý, nhân chủng học. Chính sự kết hợp các quy luật cơ bản có chiều sâu đó cho phép chúng ta cân bằng, tìm được “điểm chung” trong cách tiếp cận đến các hệ thống pháp luật và đánh giá chúng. Hiện nay, đầu thế kỷ XXI với cơ cấu nhiều mức độ của xã hội và đời sống năng động của con người, hợp tác trong lĩnh vực pháp luật tạo điều kiện cho việc làm phong phú thêm nền văn hóa của các dân tộc và của các công dân ở các nước khác nhau. Các tư tưởng pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật được mở ra đối với mọi người dễ dàng bước qua các giới hạn và làm cho các dân tộc xích lại gần nhau. Hợp tác trong lĩnh vực pháp luật bảo vệ một cách vững chắc các giá trị, các chế định, các nguyên tắc pháp luật của quá khứ. 2. Khuynh hướng phát triển chung của pháp luật trên thế giới – cơ sở của sự hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật: 2.1. Trong thời gian gần đây, do những nguyên nhân khác nhau, các nhà chính trị, các nhà quản lý, những người nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật ngày càng chú trọng nhiều hơn đến các quá trình phát triển chung của pháp luật trên thế giới. Nghiên cứu và nhận thức các quá trình đó và các khuynh hướng mâu thuẫn đặc trưng cho các quá trình đó trở thành nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt đối với tất cả các nước và toàn bộ cộng đồng thế giới. Việc phân tích một cách khách quan các quá trình và khuynh hướng đó tạo cơ sở cho việc đánh giá một cách đúng đắn mức độ kết hợp của cái chung và cái đặc thù trong sự phát triển chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa – xã hội, sinh thái của các nước và các vùng và mức độ tương ứng trong “sự khác biệt về pháp luật” và mức độ của “sự liên kết pháp luật”. Trên cơ sở đó hình thành chính sách pháp luật về so sánh và đối chiếu, về tiếp nhận và không tiếp nhận, về việc xích lại gần nhau, về tương thích và thống nhất hóa. Đó là một trong những nội dung quan trọng của hợp tác, hội nhập trong lĩnh vực pháp luật. Việc phát hiện và làm sáng tỏ các quy luật và khuynh hướng chung của sự phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng đối với quá trình hợp tác và hội nhập trong lĩnh vực pháp luật. Bởi lẽ các quy luật và khuynh hướng đó làm cơ sở cho chúng ta xác định phạm vi và khối lượng so sánh các hệ thống pháp luật, xác định mức độ ảnh hưởng lẫn nhau của các hệ thống pháp luật và khả năng sử dụng các học thuyết và thực tiễn pháp lý của các nước. Việc phổ biến các quan điểm và khuynh hướng phát triển của pháp luật là những phương tiện năng động và có hiệu quả nhất để so sánh chúng và hưởng ứng, ủng hộ sự tồn tại của nhau. 2.2. Trong thời đại ngày nay pháp luật ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hợp tác và hội nhập. Bởi lẽ hiện nay khi mà giữa các quốc gia có mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và cùng với quá trình mở rộng các quan hệ trong sự hợp tác lẫn nhau thì pháp luật thực hiện chức năng rất quan trọng là chức năng “liên kết ổn định”. Hoạt động của pháp luật trở thành toàn diện hơn xuất phát từ nhu cầu cần có nhiều quan điểm và quyết định pháp luật giống nhau và nhu cầu mở rộng lĩnh vực phát triển pháp luật giữa các quốc gia. “Lĩnh vực pháp luật chung” ngày càng được hình thành và được luật quốc tế bảo vệ. Trong điều kiện hiện nay luật quốc tế có mối liên hệ rất chặt chẽ với pháp luật quốc gia và cơ cấu của luật quốc tế ở chừng mức không nhỏ tùy thuộc vào những điểm chung trong các hệ thống pháp luật quốc gia. Lĩnh vực điều chỉnh pháp lý quốc tế được tăng lên rõ rệt nhờ có sự mở rộng các khách thể điều chỉnh pháp luật trong các quốc gia, không phải bằng cách tách ra mà bằng cách cùng phối hợp điều chỉnh. Và do vậy pháp luật quốc tế thể hiện như một đảm bảo, một tiêu chuẩn pháp lý chung đối với các hệ thống pháp luật quốc gia. Từ đây xuất hiện các nguyên tắc pháp lý mới: nguyên tắc đề cao các quy phạm chung của cộng đồng quốc tế; nguyên tắc đề cao các nguyên tắc và quy phạm đã được thừa nhận của luật quốc tế so với các quy phạm của pháp luật quốc gia; nguyên tắc bảo đảm trực tiếp việc bảo vệ bằng pháp lý quốc tế đối với các quyền và tự do của con người và công dân. 2.3. Trong đời sống pháp lý quốc tế đã thừa nhận quy luật chung của sự phát triển pháp luật là sự thừa nhận chung tính tối cao (tối thượng) của pháp luật và của các luật. Sự ghi nhận nguyên tắc đó trong Hiến pháp của các quốc gia, việc bảo đảm nguyên tắc đó trong hệ thống pháp luật và việc thực hiện nhất quán nguyên tắc đó trong thực tiễn pháp lý tạo điều kiện để làm sáng tỏ cái gì được gọi là chung, là điểm tương đồng đặc trưng cho các hệ thống pháp luật khác nhau. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nguyên tắc bảo đảm và bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân ngày càng được phổ biến rộng rãi. Sự thừa nhận chung của cộng đồng thế giới đối với nguyên tắc đó làm cho nó trở thành nguyên tắc nền tảng, cơ bản đối với pháp luật của các quốc gia. Các văn bản quy phạm pháp luật, các quyết định và hành động cụ thể ở các quốc gia đều được xây dựng và thực hiện trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc đó. 2.4. Trong thời đại ngày nay các nguyên tắc dân chủ chung của pháp luật vẫn mang tính thời sự và đầy sức sống. Pháp luật dường như được pha trộn ở mức độ toàn thế giới vào trong lễ phục dân chủ của mình như một tư tưởng, như một nguyên tắc, như một mệnh lệnh được thừa nhận. Do vậy: Việc bảo đảm tính kế thừa pháp luật ở nghĩa rộng lớn nhất trở thành một khuynh hướng chung trong sự phát triển của pháp luật. Từng quốc gia hoặc các nhóm quốc gia có thể xác định phương hướng phát triển pháp luật của mình một cách khác nhau. Nhưng sự phối hợp, sự tương thích và sự xích lại gần nhau của pháp luật quốc gia phản ánh phương hướng liên kết chung. 2.5. Tất cả những điều trình bày trên làm cơ sở để chúng tôi đưa ra một số khuynh hướng phát triển chung của pháp luật. Các khuynh hướng này đặc trưng cho quá trình diễn biến không chỉ của các hệ thống pháp luật trong thế giới hiện đại mà còn đặc trưng cho sự hợp tác giữa các hệ thống pháp luật đó với nhau và với luật quốc tế. Các khuynh hướng phát triển chung của pháp luật có thể được phân thành năm nhóm như sau: - Nhóm thứ nhất, là các khuynh hướng phát triển chung của pháp luật thể hiện các quy luật ổn định ở phạm vi cộng đồng thế giới liên quan đến các giá trị pháp luật đã được thừa nhận chung. - Nhóm thứ hai, bao gồm các quá trình và khuynh hướng cùng loại nằm trong phạm vi của các họ pháp luật lớn với các nguồn thế giới quan và pháp lý chung của chúng. - Nhóm thứ ba, là các khuynh hướng phát triển pháp luật mang tính chất phối hợp chặt chẽ bên trong phạm vi của các quốc gia liên minh. - Nhóm thứ tư, bao gồm các khuynh hướng mang tính khu vực của sự hợp tác pháp luật của các quốc gia và của các quá trình xích lại gần nhau các hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các quốc gia đó. Trong tương lai có khả năng sẽ xuất hiện các cấu thành pháp lý khu vực mới (các tổ chức khu vực mới) mang tính chất chung hoặc chuyên môn. - Nhóm thứ năm, phản ánh các khuynh hướng mang tính chất cục bộ hơn của sự phát triển pháp luật đa dạng liên quan đến việc phân hóa hoặc hình thành các quốc gia mới. Các khác biệt pháp luật được đánh giá như là những khác biệt bền vững và được quyết định bởi các đặc điểm của từng quốc gia và như là các khác biệt tạm thời cần được khắc phục hoặc như là các khác biệt ngày càng tăng lên do những nguyên nhân chính trị, kinh tế, sinh thái. Tất cả các khuynh hướng nói trên được biểu hiện với những cường độ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf50_928.pdf
Tài liệu liên quan