Không giống như tiêm ở vùng phía trên mặt mà mục tiêu điều trị là cắt dây
thần kinh bằng hóa chất để đạt được sự thanh toán các đường cường lực
(hyperdynamic line), mục tiêu điều trị ở vùng phía dưới mặt là làm mềm các
đường hơn là loại trừ chúng. Điều trị vùng phía dưới mặt đòi hỏi sự dè dặt liên
quan đến sự thông hiểu về giải phẫu của mặt và kỹ thuật tiêm. Các biến đổi về giải
phẫu mặt cần phải khám kỹ vùng chuẩn bị điều trị để đi đến xác định chiến l ược,
kế hoạch điều trị chu đáo.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Các chiều hướng tương lai trong điều trị bằng botulinum toxin (future trends in treatment with botulinum toxin)- kỳ 3, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC CHIỀU HƯỚNG TƯƠNG LAI
TRONG ĐIỀU TRỊ BẰNG BOTULINUM TOXIN
(Future Trends in Treatment with Botulinum Toxin)
(Kỳ 3)
oooOOOooo
2.2.Vùng phía dưới Mặt:
Không giống như tiêm ở vùng phía trên mặt mà mục tiêu điều trị là cắt dây
thần kinh bằng hóa chất để đạt được sự thanh toán các đường cường lực
(hyperdynamic line), mục tiêu điều trị ở vùng phía dưới mặt là làm mềm các
đường hơn là loại trừ chúng. Điều trị vùng phía dưới mặt đòi hỏi sự dè dặt liên
quan đến sự thông hiểu về giải phẫu của mặt và kỹ thuật tiêm. Các biến đổi về giải
phẫu mặt cần phải khám kỹ vùng chuẩn bị điều trị để đi đến xác định chiến lược,
kế hoạch điều trị chu đáo.
2.2.1.Vết răn ở cằm (“peach pit” chin):
Cơ cằm cường lực có thể gây ra các vết răn giống đá cuội ở da phía trên
cằm gây nên chứng “ peach pit”. Điều này có thể nhìn thấy khi bệnh nhân nói
“one”. Các vết răn giống đá cuội có thể giảm bớt khi tiêm tổng công 5-10 đơn vị
BTX vào chổ nhô lên của cằm ở mặt trước xương cằm , dùng 1-2 điểm tiêm.
2.2.2.Các vết nhăn quanh miệng:
Không giống như phức hợp ở vùng giữa trên gốc mũi, khi mà mục tiêu là
bất động (immobilization) cơ hoàn toàn, mục tiêu điều trị BTX quanh miệng là đạt
được là liệt nhẹ từng phần vòng quanh miệng hơn là gây liệt hoàn toàn. BTX được
dùng phối hợp với laser trên bề mặt da, các hóa chất bôi và làm đầy (như là
collagen và hyaluronic acid), để đạt được sự trẻ lại của vùng quanh miệng. Cần
lượng giá tình trạng mặt của bệnh nhân trước khi điều trị, xác định nguyên nhân
gây các vết nhăn quanh miệng. Các vết nhăn sâu đòi hỏi dùng liên kết với chất làm
đầy (filler) và có khả năng tái tạo bề mặt vùng quanh miệng.
Dùng các mũi tiêm đối xứng vào phần nông của vùng quanh miệng, dưới
lớp bì. Đầu tiên, 0,5-1 đơn vị tiêm 4 phần đều nhau vào vùng trên bờ môi chổ bôi
son, vùng trung tâm phía trên môi cần phải tránh vì có thể gây dẹt mỏng như cánh
cung. Duy trì mũi tiêm ở môi dưới, 0,5-1 đơn vị tiêm 4 phần đếu nhau vào vùng
dưới bờ mội chổ bôi son.
Mũi tiêm BTX ở các đường viền môi có thể gây giả cường lực môi thứ phát
làm lộn môi trên ra, do đó cần dùng các loại làm đầy môi. Các tác dụng phụ có thể
xảy ra thứ phát khi điều trị vòng quanh miệng bao gồm: khó khăn khi hớp từng
hớp hoặc khi hút, phát âm “p” và “b”, huýt sáo, hôn, chơi các nhạc cụ thổi hơi.
Bệnh nhân cần được tư vấn để biết trước khi điều trị.
2.2.3.Các đường như con rối (marionette lines):
Tác động của nếp nhăn góc miệng gây các đường như con rối. Nếp nhăn
góc miệng có thể nhận thấy ở bệnh nhân bởi co kéo các đường biên của miệng;
điều trị thiếu thận trọng ở môi dưới gây môi bị trề ra. Điều này có thể loại trừ bằng
cách tiêm vào nếp nhăn góc miệng ở mặt sau-bên của cơ định vị ở bờ trước của
xương hàm, phía trước cơ cắn (masseter muscle) Bờ trước của cơ cắn có thể xác
định khi bệnh nhân cắn chặt răng. Điều trị nếp nhăn góc miệng làm giảm sự gia
tăng lực cơ, cho phép các cơ ở gò má tăng hiệu quả loại trừ các nếp nhăn ở miệng.
2.3.Vùng Cổ:
Cơ da cổ (platysma)
BTX dùng ở vùng cổ để cải thiện các dãi nếp nhăn nằm thẳng đứng và nằm
ngang ở da cổ. Tiêm vào lớp nông ở cơ da cổ và cần loại trừ sự thiếu thận trọng
khi tiêm vào lớp cơ bên dưới. Bao gồm các cơ ức-đòn-chũm (sternocleidomastoid)
và cơ thanh quản, chúng có thể gây khó nuốt, yếu liệt cơ cổ. Tiêm 3-10 đơn vị vào
1-3cm dọc theo dãi nhăn. Điều trị các dãi nhăn ở da cổ thường gây mềm đi các
đường ngang ở cổ. Tổng liều điều trị vào khoảng 50-100 đơn vị.
V-CHỐNG CHỈ ĐỊNH VÀ THẬN TRỌNG KHI TIÊM BOTULINUM
TOXIN:
1-Sự phát triển các Kháng thể:
Tất cả BTX là các chất sinh miễn dịch, làm xuất hiện các kháng thể ức chế.
Có các báo cáo lâm sàng ở các bệnh nhân mà họ lập đi lập lại việc điều trị bằng
BTX-A, họ không có đáp ứng lâu dài : “không đáp ứng thứ phát”. Bệnh nhân này
phát triển các kháng thể với BTX, đáp ứng sẽ giảm dần. Việc dùng các serotype
BTX khác nhau đã xác định hiệu quả trên các bệnh nhân có hiện tượng không đáp
ứng thứ phát.
Các yếu tố làm gia tăng nguy cơ phát triển các kháng thể: liều lượng cao,
khoảng thời gian giữa các mũi tiêm ngắn, liều quá mạnh, tuổi trẻ. Các khuyến cáo
để dự phòng tình trạng phát triển các kháng thể: (1) dùng liều thấp có hiệu lực, (2)
thời gian giữa các mũi tiêm khoảng 1 tháng nhưng không quá 3 tháng, (3) không
dùng liều quá mạnh.
“Không đáp ứng tiên phát” xảy ra ở các bệnh nhân mà họ không đáp ứng
tại lần điều trị đầu tiên với BTX. Khả năng có thể là giảm đáp ứng liên quan đến
liều điều trị không thỏa đáng (inadequate) hoặc do kỹ thuật tiêm.
2-Các Chống chỉ định:
Chống chỉ định chắc chắn
-Phản ứng dị ứng
-Có thai và Cho con bú
-Tiêm vào vùng nhiễm trùng hoặc viêm nhiễm
Chống chỉ định tương đối
-Bệnh thần kinh-cơ (nhược cơ nặng, hội chứng Eaton-Lambert)
-Bệnh lý thần kinh vận động
-Sử dụng chung với aminoglycosides
(Viết theo:
Future Trends in Treatment with Botulinum Toxin.
A.Carruthers, J. Carruthers, D. Railan – Khoa Da, Đại học British
Columbia, Canada.
Website AccessDermatology, 17/5/2007 )
BS NGUYỄN KHÁNH HÒA ĐỒNG
(SỞ Y TẾ TIỀN GIANG)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_chieu_huong_tuong_lai_doc_3_8886.pdf