1. Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo pháp luật
hình sự?
Trong một số ít trường hợp đặc biệt tuy chỉ mới là biểu lộ ý định phạm tội nhưng
chúng đã mang tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội nênluật hình sự qui định là một
tội độc lập, nghĩa là trong trường hợp này bản thân hành vi biểu lộ ý định phạm tội
cũng đã cấu thành tội độc lập. Đây là những trường hợp việc biểu lộ ý định phạm
tội được thể hiện dưới hình thức "đe dọa" xâm phạm những kháchthể rất quan
trọng như an ninh quốc gia, tính mạng con người,.
7 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Các chế định liên quan đến tội phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các chế định liên quan đến tội phạm
1. Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo pháp luật
hình sự?
Trong một số ít trường hợp đặc biệt tuy chỉ mới là biểu lộ ý định phạm tội nhưng
chúng đã mang tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội nên luật hình sự qui định là một
tội độc lập, nghĩa là trong trường hợp này bản thân hành vi biểu lộ ý định phạm tội
cũng đã cấu thành tội độc lập. Đây là những trường hợp việc biểu lộ ý định phạm
tội được thể hiện dưới hình thức "đe dọa" xâm phạm những khách thể rất quan
trọng như an ninh quốc gia, tính mạng con người,...
2. Tội phạm có cấu thành hình thức không có giai đoạn phạm tội chưa đạt
Đối với tội phạm có cấu thành hình thức thì có 2 trường hợp có thể xảy ra:
- Đối với tội phạm có cấu thành hình thức mà mặt khách quan chỉ bao gồm một
hành vi khách quan thì không có giai đoạn phạm tội chưa đạt, bởi vì chỉ cần
người phạm tội thực hiện hành vi khách quan hoặc hành vi đi liền trước hành vi
khách quan) thì tội phạm hoàn thành.
- Đối với tội phạm có cấu thành hình thức mà mặt khách quan bao gồm nhiều
hành vi. Nếu người phạm tội chưa thực hiện hết tất cả các hành vi mà bị dừng lại
do nguyên nhân khách quan thì trường hợp này được coi là chưa thực hiện hết
hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm (phạm tội chưa đạt)
3. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp không bị coi là
phạm tội
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về
tội định phạm, nhưng nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành một
tội phạm khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Do đó tùy
trường hợp cụ thể mới biết là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có bị coi là
phạm tội hay không?
4. Mức độ thực hiện hành vi phạm tội là một trong những căn cứ ảnh hưởng
đến mức độ trách nhiệm hình sự.
Mức độ thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở để xác định phạm vi và mức độ
trách nhiệm hình sự và hình phạt
5. Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm người phạm tội đã đạt được
mục đích phạm tội của mình
Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm, phụ thuộc vào cấu trúc pháp lý của cấu thành tội phạm được nhà
làm luật qui định trong luật hình sự, vào việc mô tả các dấu hiện của cấu thành tội
phạm trong qui phạm cụ thể của phần các tội phạm, không phụ thuộc vào mục
đích phạm tội của tội phạm.
Cụ thể:
- Đối với những tội có cấu thành vật chất thì tội phạm được coi là hoàn thành khi
có hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu trong cấu thành tội phạm xảy ra (hậu
quả do luật định).
- Đối với những tội có cấu thành tội phạm hình thức: thời điểm hoàn thành của tội
phạm được xác định là thời điểm người phạm tội thực hiện hết các hành vi khách
quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
6. Bàn bạc thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm là dấu hiệu bắt
buột của đồng phạm
Cố ý cùng thực hiện tội phạm mới là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm, do đó các
đồng phạm có thể bàn bạc thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm hay
cố ý cùng thực hiện tội phạm ngay ở giai đoạn thực hiện tội phạm. Bàn bạc thỏa
thuận trước không phải là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm.
7. "Cùng mục đích" là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm
Cố ý cùng thực hiện tội phạm mới là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm, còn mỗi
đồng phạm có thể có mục đích phạm tội khác nhau.
8. Đồng phạm phức tạp là phạm tội có tổ chức.
Đồng phạm phức tạp là một hình thức đồng phạm trogn đó có một hoặc một số
người tham gia giữ vai trò người thực hành, còn những người đồng phạm khác giữ
vai trò tổ chức, xúi giục hay giúp sức. Việc phân loại đồng phạm phức tạp và đồng
phạm giản đơn dựa dấu hiệu khách quan.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữ những
người cùng thực hiện tội phạm, thông qua việc phân công nhiệm vụ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm, có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng chu đáo cho việc
thực hiện tội phạm.
Thông thường phạm tội có tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông mưu
trước, là đồng phạm phức tạp, nhưng cũng có trường hợp phạm tội có tổ chức là
đồng phạm giản đơn.
9. Người thực hành chỉ là người tự mình thực hiện hành vi phạm tội.
Người thực hành có thể là người tự mình thực hiện hành vi phạm tội hoặc người
thông qua người khác để trực tiếp thực hiện tội phạm, đối tượng bị tác động này có
thể là 1 trong 3 người như sau
- Người không có năng lực hành vi hành sự hoặc không đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự.
- Người bị sai lầm về đối tượng tác động.
- Người bị cưỡng bức về thân thể hoặc tinh thần.
10. Hành vi của mỗi người đồng phạm đều là nguyên nhân trực tiếp đưa đến
hậu quả chung của tội phạm.
Có hai trường hợp xảy ra: hậu qua chung của tội phạm có thể là nguyên nhân trực
tiếp của mỗi người đồng phạm hoặc chỉ là nguyên nhân trực tiếp của hành vi của
những người thực hành.
11. Đối với những tội phạm có chủ thể đặc biệt, những người đồng phạm buộc
phải có dấu hiệu của chủ thể đặc biệt.
Đối với tội phạm có chủ thể đặc biệt thì người đồng phạm buộc phải có dấu hiệu
của chủ thể đặc biệt là người thực hành, còn các đồng phạm khác như người tổ
chức, người giúp sức có thể không.
12. Việc xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm căn cứ vào
hành vi của người thực hành.
13. Mọi hành vi cố ý chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đều coi
là hành vi giúp sức trong đồng phạm
14. Giúp sức để kết thúc tội phạm vào thời điểm sau khi tội phạm hoàn thành
là đồng phạm.
15. Tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là tình tiết
loại trừ tính chất phạm tội.
16. Hành vi tấn cống của những người không có năng lực trách nhiệm hình
sự dù nguy hiểm đáng kể cho xã hội cũng không làm phát sinh quyền phòng
vệ chính đáng.
17. Hành vi phòng vệ quá sớm và phòng vệ quá muộn là phạm tội do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Hành vi phòng vệ quá sớm và phòng vệ quá muộn không làm phát sinh quyền
phòng vệ trong khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đã khởi phát việc
phòng vệ nhưng hành vi chống trả rõ ráng quá mức cần thiết, không phù hợp với
tính chất và mức độ của hành vi xâm hại.
18. Hành vi phòng vệ được coi là trong giới hạn cần thiết nếu thiệt hại gây ra
cho người tấn công nhỏ hơn thiệt hại mà người tấn công gây ra hoặc đe dọa
gây ra.
Sự "cần thiết" của hành vi phòng vệ không đòi hỏi sự tương xứng về công cụ,
phương tiện, hoặc sự tương đồng về mức độ thiệt hại mà hành vi tấn công và hành
vi phòng vệ gây ra. Thực tiễn vẫn chấp nhận phòng vệ trong giới hạn "cần thiết"
ngay cả khi thiệt hại do hành vi phòng vệ gây ra lớn hơn thiệt hại do hành vi tấn
công gây ra, nếu có đủ căn cứ chứng minh rằng trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể
biện pháp và mức độ phòng vệ đó là cần thiết để ngăn chặn sự tấn công.
19. Thiệt hại gây trong tình thế cấp thiết phải là thiệt hại nhỏ nhất để khắc
phục tình trạng nguy hiểm.
Điều 16 BLHS : Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy
cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính
đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một
thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Do đó thiệt hại gây trong tình thế cấp thiết nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa là
được.