Ổ đĩa cứng sau một thời gian sử dụng sẽ có hiện tượng báo lỗi khi truy
xuất dữ liệu và có thể không thể khởi động được, máy bị đứng (treo)
trong khi đèn tín hiệu báo ổ đĩa cứng vẫn sáng liên tục.đó là dấu hiệu
cho thấy ổ đĩa cứng bị lỗi Bad Sector.
Nếu bị lỗi nhẹ có thể sử dụng chương trình Scandisk có sẵn trong
Windows để sửa (Xem hướng dẫn Sử dụng Scandisk để kiểm tra lỗi đĩa
trong Windows XP), tuy nhiên nếu ổ đĩa bị lỗi Bad Sector khá nặng thì
Scandisk thường không sửa được mà phải dùng đến các chương trình
chuyên dụng hơn để sửa lỗi.
Bài viết này sẽ hướng dẫn cách sửa lỗi Bad Sector của đĩa cứng bằng
chương trình HDD Regenerator, chương trình này có khả năng phục hồi
lại các lỗi đĩa (Bad Sector) mà không làm mất dữ liệu trong ổ đĩa.
Đây cũng là một trong những chương trình thường dùng để "tẩy" Bad cho
ổ đĩa cứng. HDD Regenerator có trong đĩa khởi động Hiren's BootCD,
có thể tìm mua đĩa này tại các cửa hàng bán đĩa CD-ROM vi tính hoặc
tìm trên mạng Internet với từ khóa "Hiren's BootCD".
14 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 2
Nội dung tài liệu Các cách sữa lỗi trên đĩa cứng HDD, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cách sửa lỗi Bad Sector của đĩa cứng bằng HDD Regenerator
Ổ đĩa cứng sau một thời gian sử dụng sẽ có hiện tượng báo lỗi khi truy
xuất dữ liệu và có thể không thể khởi động được, máy bị đứng (treo)
trong khi đèn tín hiệu báo ổ đĩa cứng vẫn sáng liên tục... đó là dấu hiệu
cho thấy ổ đĩa cứng bị lỗi Bad Sector.
Nếu bị lỗi nhẹ có thể sử dụng chương trình Scandisk có sẵn trong
Windows để sửa (Xem hướng dẫn Sử dụng Scandisk để kiểm tra lỗi đĩa
trong Windows XP), tuy nhiên nếu ổ đĩa bị lỗi Bad Sector khá nặng thì
Scandisk thường không sửa được mà phải dùng đến các chương trình
chuyên dụng hơn để sửa lỗi.
Bài viết này sẽ hướng dẫn cách sửa lỗi Bad Sector của đĩa cứng bằng
chương trình HDD Regenerator, chương trình này có khả năng phục hồi
lại các lỗi đĩa (Bad Sector) mà không làm mất dữ liệu trong ổ đĩa.
Đây cũng là một trong những chương trình thường dùng để "tẩy" Bad cho
ổ đĩa cứng. HDD Regenerator có trong đĩa khởi động Hiren's BootCD,
có thể tìm mua đĩa này tại các cửa hàng bán đĩa CD-ROM vi tính hoặc
tìm trên mạng Internet với từ khóa "Hiren's BootCD".
Khởi động chương trình HDD Regenerator:
Cho máy vi tính khởi động từ đĩa Hiren's BootCD bằng cách mở
máy vi tính lên và nhanh chóng cho đĩa CD này vào ổ đĩa CD-
ROM và đóng ổ đĩa lại ngay. Khi xuất hiện màn hình khởi động
của Hiren's BootCD, chọn Start BootCD.
Trong Menu phân loại của Hiren's BootCD, chọn Hard Disk
Tools.
Trong Menu chương trình của Hard Disk Tools, chọn HDD
Regenerator.
Màn hình HDD Regenerator báo cho biết có bao nhiêu ổ đĩa cứng
và dung lượng của từng ổ đĩa. Hãy nhấn một phím bất kỳ để tiếp
tục hoặc nhấn phím Esc để thoát khỏi chương trình nếu muốn.
Nếu máy có nhiều ổ đĩa cứng thì chương trình sẽ yêu cầu chọn ổ
đĩa, nhập vào số thứ tự tương ứng với ổ đĩa muốn sửa lỗi và nhấn
phím Enter.
Chú ý: Ổ đĩa cứng được hiển thị trên đây là ổ cứng vật lý (ổ cứng thật)
chứ không phải là ổ đĩa từ các phân vùng (Partition) đã được chia.
Trong màn hình kế tiếp chương trình sẽ đưa ra lựa chọn bắt đầu
kiểm tra (Scan) từ vị trí nào của ổ đĩa, nếu muốn kiểm tra từ đầu thì
cứ để nguyên số 0 (mặc nhiên) và nhấn phím Enter để tiến hành
kiểm tra.
Nếu xác định được ổ đĩa cứng bị lỗi ở phần nào thì có thể chỉ cho
bắt đầu kiểm tra từ vị trí đó bằng cách nhập vào giá trị dung lượng
muốn kiểm tra từ đó.
Thí dụ: Trong máy gắn 1 ổ đĩa cứng có dung lượng 5GB (tính chẵn
khoảng 5.000MB) và được chia làm 2 phân vùng (Partition) là ổ C:
có dung lượng 3.000MB và ổ D: có dung lượng 2.000MB, nếu xác
định chỉ bị lỗi khi truy xuất dữ liệu trên ổ D: thì có thể nhập 3000
và nhấn phím m, chương trình sẽ tự chuyển thành Mb (MB) sau đó
nhấn phím Enter để tiến hành kiểm tra ổ đĩa bắt đầu từ vị trí
3.000MB cho đến hết.
Chương trình sẽ tiến hành kiểm tra và hiển thị các thông tin trên
màn hình, quá trình kiểm tra và sửa lỗi sẽ mất rất nhiều thời gian.
Trong khi chương trình kiểm tra, nếu tìm thấy lỗi (Bad Sector) nó
sẽ hiện chữ B và bắt đầu sửa bằng cách phục hồi lại, sau khi được
phục hồi chỗ bị lỗi sẽ hiển thị chữ R. Nếu không phục hồi được lỗi
này chương trình sẽ cố gắng di chuyển dữ liệu vào nơi khác và
đánh dấu B (Bad) để dữ liệu không sẽ được ghi vào chỗ bị lỗi này.
Sau khi kiểm tra và sửa lỗi xong chương trình sẽ hiển thị thông báo
hoàn tất, nhấn một phím bất kỳ để kết thúc. Sau đó chương trình sẽ
tiếp tục hiển thị bảng thông kê kết quả, nhấn phím bất kỳ một lần
nữa để thoát khỏi chương trình.
Lưu ý:
Trong quá trình kiểm tra, nếu muốn ngưng việc kiểm tra lại thì có
thể nhấn tổ hợp phím Ctrl + C để kết thúc chương trình, những lỗi
đã sửa vẫn có hiệu lực.
Nếu thấy chương trình HDD Regenerator kiểm tra rất chậm và liên
tục hiển thị nhiều chữ B có nghĩa là ổ đĩa đã bị lỗi quá nặng, nên
thay mới để đảm bảo cho dữ liệu.
Cơ bản về RAID cho máy tính để bàn
Trong khoảng một vài năm trở lại đây, từ chỗ là một thành phần xa xỉ của
các hệ thống máy tính lớn, máy trạm, máy chủ chuyên nghiệp. RAID đã
được đưa vào các máy tính để bàn dưới dạng tích hợp đơn giản. Tuy
nhiên có thể người mua biết rằng mainboard của họ có công nghệ RAID
nhưng không phải ai cũng biết cách sử dụng chúng sao cho hiệu quả. Bài
viết này sẽ đem lại những thông tin tối thiểu cũng như một vài kinh
nghiệm sử dụng dành cho những người đang có mong muốn gia tăng sức
mạnh cho hệ thống của mình.
A. RAID là gì ?
Nếu hỏi một người bình thường về khái niệm RAID, rất có thể họ sẽ đề
cấp tới một loại thuốc diệt muỗi đang được ưa chuộng trên thị trường, tuy
nhiên thực tế không phải như vậy. RAID được viết đầy đủ có dạng
Redundant Array of Independent Disks. Ban đầu, RAID được sử dụng
như một giải pháp phòng hộ vì nó cho phép ghi dữ liệu lên nhiều đĩa
cứng cùng một lúc, nhờ thế cho dù có trục trặc xảy ra thì những thông tin
quan trọng cũng không bị mất đi. Về sau này, RAID đã có nhiều biến thể
mới cho phép không chỉ đảm bảo độ an tòan mà còn gia tăng đáng kể tốc
độ truy xuất dữ liệu từ hệ thống đĩa cứng. Tuy thế cơ bản vẫn có hai dạng
chính (và cũng được sử dụng cho hệ máy tính cá nhân) đó là Mirror và
Stripe. Mặc dù có hàng tá các biến thể khác nhau của RAID được sử dụng
rộng rãi, tuy nhiên do khuôn khổ bài báo nên tôi sẽ giới thiệu với các bạn
năm loại được dùng nhiều và thường được các thiết bị RAID hỗ trợ như
là tính năng tối thiểu phải có:
1. RAID-0:
Đây là dạng RAID đang được người dùng ưa thích do khả năng nâng cao
hiệu suất trao đổi dữ liệu của đĩa cứng. Đòi hỏi tối thiểu hai đĩa cứng,
RAID 0 cho phép máy tính ghi dữ liệu lên chúng theo một giao thức đặc
biệt thường được gọi là Striping. Ví dụ bạn có 8 đoạn dữ liệu được đánh
số từ 1 đến 8 thì với Stripe. Các đoạn 1,3,5,7 sẽ được ghi lên đĩa cứng đầu
tiên và 2,4,6,8 sẽ cùng lúc được ghi lên đĩa thứ hai. Để đơn giản hơn, bạn
có thể hình dung mình có 100MB dữ liệu và thay vì dồn 100MB vào một
đĩa cứng duy nhất thì RAID-0 sẽ giúp dồn 50MB vào mỗi đĩa cứng riêng
giúp giảm một nửa thời gian làm việc theo lý thuyết. Từ đó bạn có thể dễ
ràng suy ra rằng nếu có 4,8 hay nhiều đĩa cứng hơn nữa thì tốc độ sẽ càng
cao hơn. Tuy nghe có vẻ hấp dẫn nhưng trên thực tế, RAID-0 ẩn chứa
một mối nguy hiểm lớn, đó là mất dữ liệu. Nguyên nhân chính lại nằm ở
cách ghi thông tin xé lẻ vì như vậy dữ liệu không nằm hoàn toàn ở một
đĩa cứng nào và mỗi khi cần truy xuất thông tin (ví dụ một file nào đó),
máy tính sẽ phải tổng hợp thông tin từ các đĩa cứng. Nếu một đĩa cứng
gặp trục trặc thì thông tin (file) đó coi như không thể đọc được và mất
luôn. Thật may mắn là với công nghệ hiện đại cho các sản phẩm phần
cứng khá bền nên những trường hợp mất dữ liệu như vậy xảy ra không
nhiều.
Có thể thấy rằng RAID-0 thực sự thích hợp cho những người dùng cần
truy cập khối lượng dữ liệu lớn trong một khoảng thời gian ngắn. Điển
hình là các tay game thủ hoặc nhưng ai chuyển làm Video số,
Multimedia. Với RAID-0, dung lượng cuối cùng sẽ bằng tổng dung lượng
các đĩa cứng tham gia hệ thống. Ví dụ 2 đĩa cứng 80GB sẽ được máy tính
coi như là một ổ 160GB với tốc độ gấp đôi.
2. RAID 1:
Đây là hệ thống RAID cơ bản nhất có khả năng cung cấp cho người dùng
tính an toàn dữ liệu. Cũng giống như RAID-0, RAID-1 đòi hỏi phải có ít
nhất hai đĩa cứng để làm việc. Dữ liệu được ghi vào ổ là giống hệt nhau
(Mirroring). Nội dung hai ổ cứng sẽ giống nhau y hệt và trong trường hợp
một ổ bị trục trặc, ổ còn lại sẽ tiếp tục hoạt động như bình thường. Bạn có
thể thay thế ổ đĩa bị hỏng mà không phải lo lắng đến vẫn đề thông tin thất
lạc. Đối với RAID-1, hiệu năng không phải là yếu tố hàng đầu nên chẳng
có gì phải ngạc nhiên nếu như nó không phải là lựa chọn số một cho
những người say mê tốc độ. Tuy nhiên đối với những nhà quản trị mạng
hoặc những ai phải quản lý nhiều thông tin quan trọng thì hệ thống
RAID-1 là thứ không thể thiếu. Dung lượng cuối cùng của hệ thống
RAID-1 bằng dung lượng của ổ đơn (hai ổ 80GB chạy RAID-1 sẽ cho hệ
thống nhìn thấy duy nhất một ổ RAID-80GB).
3. RAID 0+1:
Có bao giờ bạn mong ước một hệ thống lưu trữ vừa nhanh nhẹn như
RAID-0, an toàn như RAID-1 hay chưa ? Chắc chắn là có, và hiển nhiên
ước muốn đó không chỉ của riêng bạn. Chính vì thế mà hệ thống RAID
kết hợp 0+1 đã ra đời với sự tổng hợp ưu điểm của cả hai đàn anh đi
trước. Tuy nhiên chi phí cho một dàn đĩa cứng kiểu này khá đắt đỏ, bạn
sẽ cần tối thiểu 4 đĩa cứng để chạy RAID 0+1. Dữ liệu sẽ được ghi đồng
thời lên 4 đĩa cứng với 2 ổ dạng Stripe tăng tốc và 2 ổ Mirror sao lưu. 4 ổ
đĩa này phải giống hệt nhau và khi đưa vào hệ thống RAID 0+1, dung
lượng cuối cùng sẽ bằng ½ tổng dung lượng 4 ổ, ví dụ bạn chạy 4 ổ 80GB
thì lượng dữ liệu bạn có thể lưu lên đó là (4*80)/2 = 160GB.
4. RAID5:
Đây có lẽ là dạng RAID mạnh mẽ nhất cho người dùng văn phòng và gia
đình với 3 hoặc 5 đĩa cứng riêng biệt. Dữ liệu và bản sao lưu được chia
lên tất cả các ổ cứng. Nguyên tắc này khá lằng nhằng. Chúng ta quay trở
lại với ví dụ về 8 đoạn dữ liệu (1-8) và giờ đây là 3 ổ đĩa cứng. Đoạn dữ
liệu số 1 và số 2 sẽ được ghi vào ổ đĩa 1 và 2 riêng rẽ, và đoạn mã sao lưu
của chúng được ghi vào ổ cứng 3. Đoạn mã số 3 và 4 được ghi vào ổ 1 và
3 với đoạn mã sao lưu tương ứng ghi vào ổ đĩa 2. Đoạn mã số 5, 6 ghi
vào ổ đĩa 2 và 3, còn đoạn mã sao lưu được ghi vào ổ đĩa 1 và sau đó
trình tự này lặp lại đoạn mã số 7, 8 lại được ghi vào ổ 1,2 và mã sao lưu
vào ổ 3 như ban đầu. Như vậy RAID5 vừa đảm bảo tốc độ có cải thiện
nhưng vẫn giữ được tính an toàn cao độ. Dung lượng đĩa cứng cuối cùng
bằng tổng dung lượng đĩa sử dụng trừ đi một ổ. Tức là nếu bạn dùng 3 ổ
80GB thì dung lượng cuối cùng sẽ là 160GB.
5. JBOD:
JBOD thực tế không phải là một dạng RAID chính thống nhưng lại có
một số đặc điểm liên quan tới RAID và được đa số các thiết bị điều khiển
RAID hỗ trợ. Vậy đặc điểm của nó là gì ? Rất đơn giản, JBOD cho phép
bạn gắn bao nhiêu ổ đĩa tùy thích vào bộ điều khiển RAID của mình (dĩ
nhiên là trong giới hạn cổng cho phép). Sau đó chúng sẽ được “tổng hợp”
lại thành một đĩa cứng lớn hơn cho hệ thống sử dụng. Ví dụ bạn cắm vào
đó các ổ 10GB, 20GB, 30GB thì thông qua bộ điều khiển RAID có hỗ trợ
JBOD, máy tính sẽ nhận ra một ổ đĩa 60GB. Tuy nhiên hãy chú ý rằng
JBOD không hề đem lại bất cứ một giá trị phụ trội nào khác: không cải
thiện về hiệu năng, không mang lại giải pháp an toàn dữ liệu, chỉ là kết
nối và tổng hợp dung lượng mà thôi.
6. Một số loại RAID khác:
Ngoài các chủng loại được đề cập đến như ở trên, bạn còn có thể bắt gặp
nhiều các loại RAID khác nhưng chúng không được sử dụng rộng rãi mà
chỉ giới hạn trong các hệ thống máy tính phục vụ mục đích chuyên môn
riêng. Có thể liệt kê như sau:
- Level 2 - Error-Correcting Coding
- Level 3 - Bit-Interleaved Parity (Hiếm được sử dụng).
- Level 4 - Dedicated Parity Drive: Thường hay được dùng vì kiểu RAID
này cho phép sử dụng khả năng tăng tốc Stripping trong khi dùng một đĩa
cứng lưu trữ các dữ liệu mẫu để khôi phục lại thông tin khi cần (parity
disk). Tuy nhiên có một nhược điểm là đôi khi đĩa cứng Parity lại là đối
tượng gây hiện tượng thắt nút cổ chai quá trình ghi dữ liệu (write
bottlenecks).
- Level 6 -- Independent Data Disks with Double Parity
- Level 10 – A Stripe of Mirrors: Ngược lại với RAID 0+1.
- Level 7: Một thương hiệu của tập đoàn Storage Computer cho phép
thêm bộ đệm cho RAID 3 và 4.
- RAID S: phát minh của tập đoàn EMC và được sử dụng trong các hệ
thống lưu trữ Symmetrix của họ.
Bên cạnh đó còn một số biến thể khác ví dụ như Intel Matrix Storage cho
phép chạy kiểu RAID 0+1 với chỉ 2 ổ cứng hoặc RAID 1.5 của DFI trên
các hệ mainboard 865,875. Chúng tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đa
phần đều là bản cải tiến của các phương thức RAID truyền thống.
B. Bạn cần gì để chạy được RAID ?
- Để chạy được RAID, bạn cần tối thiểu một card điều khiển và hai ổ đĩa
cứng giống nhau. Đĩa cứng có thể ở bất cứ chuẩn nào, từ ATA,
SerialATA hay SCSI nhưng tốt nhất chúng nên hoàn toàn giống nhau cả
về nhà sản xuất lẫn cấu hình vì một nguyên tắc đơn giản là khi hoạt động
ở chế độ đồng bộ như RAID, hiệu năng chung của cả giàn ổ sẽ bị kéo
xuống theo ổ chậm nhất nếu có. Lấy ví dụ khi bạn bắt ổ 160GB chạy
RAID với ổ 40GB (bất kể 0 hay 1) thì coi như bạn đã lãng phí 120GB vô
ích vì hệ thống điều khiển chỉ coi chúng là một cặp hai ổ cứng 40GB mà
thôi (ngoại trừ trường hợp JBOD như đã đề cập). Yếu tố quyết định tới số
lượng ổ đĩa chính là kiểu RAID mà bạn định chạy. Chuẩn giao tiếp không
quan trọng lắm, đặc biệt là giữa SATA và ATA. Một số main đời mới
cho phép chạy RAID theo kiểu trộn lẫn cả hai giao tiếp này với nhau.
Điển hình như MSI K8N Neo2 Platinum hay dòng DFI Lanparty
NForce4.
- Bộ điều khiển RAID (RAID Controller) là nơi tập trung các dây cáp dữ
liệu nối từ các đĩa cứng trong hệ thống RAID và nó xử lý toàn bộ dữ liệu
đi qua đó. Bộ điều khiển này có nhiều dạng khác nhau, từ các card tách
rời cho dến chip tích hợp lên bo mạch chủ.
- Đối với các hệt thống Desktop thì mặc dù các bo mạch chủ hiện đại
không yêu cầu bạn phải sử dụng RAID cho dù chúng được tích hợp sẵn
nhưng việc chọn lựa một mainboard có RAID tích hợp khi mua hàng là
điều nên làm vì nói chung đây là một trong những giải pháp cải thiện hiệu
năng hệ thống rõ rệt và rẻ tiền nhất nếu không tính tới giá trị an toàn dữ
liệu của chúng. Trong trường hợp bo mạch chủ không có RAID, bạn vẫn
có thể mua được card điều khiển PCI trên thị trường với giá không cao
lắm. Một thành phần khác của hệ thống RAID không bắt buộc phải có
nhưng đôi khi sẽ là hữu dụng, đó là các khay hoán đổi nóng ổ đĩa. Nó cho
phép bạn thay các đĩa cứng gặp trục trặc ra khỏi hệ thống đang hoạt động
mà không phải tắt máy. Chỉ đơn giản là mở khóa, rút ổ ra và cắm ổ mới
vào là xong. Thiết bị này thường sử dụng với ổ cứng SCSI và khá quan
trọng đối với các hệ thống máy chủ trên mạng vốn yêu cầu hoạt động liên
tục.
- Về phần mềm thì khá đơn giản vì hầu hết các hệ điều hành hiện đại đều
hỗ trợ RAID rất tốt, đặc biệt là Microsoft Windows. Chính vì thế nếu như
bạn vừa mua một máy tính mới với Windows XP thì việc bổ sung RAID
là điều khá dễ dàng. Quan trọng nhất là trình điều khiển nhưng thật tuyệt
khi chúng đã được kèm sẵn với thiết bị ngay khi bạn mua hàng. Việc cài
đặt RAID có thể sẽ đem lại một vài rắc rối với những người dùng thiếu
kinh nghiệm, tuy nhiên chúng ta sẽ cùng tìm ra hướng giải quyết trong
phần sau của bài viết. Có hai trường hợp sẽ xảy ra trong khi người dung
nâng cấp RAID cho hệ thống của họ. Nếu như hệ thống RAID bổ sung
chỉ được dùng với mục đích lưu trữ hoặc làm nơi trao đổi thông tin tốc độ
cao thì việc lắp đặt rất đơn giản. Tuy nhiên nếu bạn dự định dùng nó làm
nơi cài hệ điều hành, phần mềm thì sẽ rất rắc rối và phải bắt đầu cài đặt
lại toàn bộ từ con số 0.
C. Xây dựng hệ thống RAID cho riêng mình:
1. Chọn lựa kiểu RAID:
- Vậy là bạn đã quyết tâm nâng cấp hệ thống của mình lên một tầm cao
mới nhằm phục vụ cho những mục đích riêng của công việc và bản thân.
Nhưng chọn lựa kiểu RAID nào phù hợp không hẳn đã đơn giản như bạn
nghĩ. Trong môi trường làm việc bình thường ở Việt Nam, bạn có thể
chọn một số giải pháp RAID bao gồm 0,1,0+1 và 5. Trong đó RAID0,1 là
kinh tế nhất và thường có trên hầu hết các dòng bo mạch chủ hiện đại.
Kiểu RAID 0+1 và 5 thường chỉ có trên những loại đắt tiền cao cấp.
- RAID-0 chắc chắn là lựa chọn đem lại tốc độ cao nhất nhưng cũng là
thứ mong manh nhất. Ví dụ bạn sử dụng 4 đĩa cứng ở RAID-0 thì tốc độ
truyền dữ liệu có thể lên tới hơn 100MB/s. Đây là con số hết sức hấp dẫn
với bất kì người dùng PC nào. Tuy thế khả năng mất mát dữ liệu cũng
tăng tỉ lệ lên 4 lần. Đĩa cứng máy tính là một sản phẩm máy móc có
chuyển động và sẽ bị lão hóa kèm theo ăn mòn sau một thời gian dài sử
dụng. Tất nhiên để đĩa cứng hỏng do lão hóa cũng cần đến một thời gian
khá dài và rất hiếm khi xảy ra. Nhưng cho dù như vậy thì một trục trặc do
điện lưới hay lỗi điều khiển cũng có thể dẫn tới thảm họa. Lý do này
khiến cho RAID-0 không nên sử dụng để lưu trữ dữ liệu lâu dài nhưng lại
là lựa chọn số một cho các ổ đĩa tạm cần tốc độ cao ví dụ như lưu trữ cơ
sở dữ liệu web. Và nếu bạn định sử dụng lâu dài, hãy thêm một vài ổ
cứng và chuyển hệ thống RAID thành 0+1. Điều đó thực sự lý tưởng nếu
như nguồn tài chính dồi dào.
- RAID-1 nếu chạy một mình nó thì sẽ không có tác dụng gì ngoài
chuyện tạo thêm một ổ đĩa nữa giống hệt như ổ chính tới từng byte dữ
liệu. Người dùng thông thường có thể sẽ không thấy hứng thú với RAID-
1 ngoại trừ những ai phải lưu trữ và quản lý những tài liệu thực sự quan
trọng như các máy chủ lưu thông tin khách hàng hoặc tải khoản. Nếu
dùng RAID-1, bạn nên cân nhắc bổ sung thêm các khay tráo đổi nóng vì
nó sẽ giúp việc phục hồi dữ liệu từ máy này sang máy khác được nhanh
chóng hơn (bạn có thể tháo lắp ổ và tiến hành tạo bản sao sang ổ mới bổ
sung ngay khi hệ thống đang làm việc bình thường).
- RAID-5 vào thời điểm hiện tại đang là lựa chọn số 1 cho mọi loại hình
máy tính nhờ khả năng vừa sửa lỗi vừa tăng tốc, nếu như bạn dự kiến xây
dựng một hệ thống RAID từ 4 đĩa cứng trở lên thì RAID-5 chắc chắn là
giải pháp tối ưu. Sự ra đời của RAID-5 gần như là dấu chấm hết với
RAID-3 bởi RAID-5 có nhiều ưu điểm hơn đồng thời cũng tránh được
nhiều vấn đề mà RAID-3 thường mắc phải.
- Các loại RAID kết hợp ví dụ như RAID 0+1 hay RAID 50 (5+0) thường
cho những đặc điểm của các kiểu RAID thành phần, tuy nhiên bạn nên
cân nhắc và chỉ sử dụng nếu cần thiết vì chi phí cho linh kiện thường khá
cao.
2. Chọn lựa phần cứng:
- Việc làm đầu tiên đó là chọn lựa linh kiện sao cho phù hợp. Về chipset
điều khiển RAID có không nhiều lựa chọn vì cơ bản chúng được tích hợp
sẵn lên bo mạch chủ. Tuy nhiên bạn cần chú ý những điểm sau:
Hiện tại bộ điều khiển RAID tích hợp thường gồm hai loại chính: chip
điều khiển gắn lên main hoặc hỗ trợ sẵn từ trong chipset. Thông dụng
gồm:
- Chipset tích hợp sẵn:
+ Intel ICH5R, ICH6, ICH7, ICH8, ICH9.... Những chipset cầu nam
(SouthBridge) này đi kèm với dòng
i865/875/915/925/945/955/965/975/P3x/G3x...
+ nVIDIA nForce2-RAID (AMD), nForce 3 Series (AMD A64) , nForce
4,5,6 Series (AMD A64/ Intel 775).
- Chip điều khiển bên ngoài: Có khá nhiều chủng loại của các hãng khác
nhau như Promise Technology, Sillicon Image, Adaptec nhưng thường
thấy nhất là hai dòng Silicon Image Sil3112 và 3114.
- Những loại được tích hợp vào trong chip cầu nam thường có độ trễ thấp,
dễ sử dụng. Tuy nhiên tính năng thường không nhiều và phần mềm còn
hạn chế. Đôi khi còn sử dụng tài nguyên hệ thống quá mức cho tác vụ
đọc/ghi. Các loại sử dụng chip của hãng thứ ba thì độ trễ thường cao hơn
(không đáng kể), phần mềm và tinh năng có phần phong phú hơn. Sử
dụng tối thiểu tài nguyên và các loại card rời thì dễ thay đổi, tháo lắp khi
cần thiết. Tuy vậy bạn cần chú ý một điều cực kì quan trọng rằng loại
Silicon Image Sil3112 có tính tương thích tương đối kém, do đó khi
chuyển sang các hệ RAID khác có thể sẽ bị mất dữ liệu. Sil3114 và cao
hơn đã khắc phục được lỗi này. Các hệ nForce và ICH5,6,7 có thể trao
đổi ổ cứng qua lại dễ dàng. BIOS RAID của chúng cũng thông minh hơn
và thường có khả năng nhận diện những nhóm ổ cứng RAID định dạng
sẵn.
- Một số bo mạch chủ mới nhất ví dụ như DFI Lanparty NF4 SLI-DR có
hỗ trợ cả RAID-5 dành cho những người dùng có nhu cầu cao. Về giao
tiếp dành cho máy tính để bàn, thông thường bạn chỉ tìm thấy các loại
PATA hoặc SATA và vì phải sử dụng nhiều dây cáp, SATA sẽ là lựa
chọn sáng suốt hơn ngay cả khi không tính đến tốc độ nhanh hơn cũng
như ổ SATA thường có nhiều công nghệ cải tiến mới hơn. Nếu dồi dào về
tài chính, bạn có thể để ý đến một số sản phẩm tương đối chuyên nghiệp
cho phép cắm thêm RAM để dùng như bộ đệm cực lớn nhằm tăng tốc độ
họat động đáng kể.
- Về ổ cứng thì bạn nên chọn các loại có khả năng truyền dữ liệu lớn và
tốc độ truy xuất nhanh. Tốc độ truy xuất (Access Time) chỉ định thời gian
cần thiết để đĩa cứng tìm thấy dữ liệu cần dùng và thông số này càng nhỏ
càng tốt. Hơn nữa, vì ổ cứng thực hiện thao tác đánh địa chỉ cho các
sector trong công việc hàng ngày nên khái niệm này càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết. Nhất là khi ổ cứng phải truy xuất nhiều lần các
khối lượng dữ liệu nhỏ. Tốc độ truyền dữ liệu của ổ cứng phụ thuộc vào
tốc độ quay của ổ và cách sắp xếp dữ liệu trên các đĩa nhớ. Khoảng cách
càng nhỏ và tốc độ quay lớn sẽ cho bạn một ổ cứng hiệu suất cao. Ngoài
ra ổ cứng cũng nên có bộ đệm lớn với 8MB trở lên, một số model mới có
dung lượng bộ đệm 16MB và những công nghệ cho phép tăng hiệu năng
làm việc đáng kể (như Seagate NCQ chẳng hạn).
- Thực tế đĩa cứng không giống với các thành phần khác của hệ thống ở
một đặc điểm : Bạn không thể tăng tốc bằng cách chỉnh lại thông số hay
“ép xung”. Mặc dù một số chương trình cho phép thay đổi những giá trị
nhất định của một đĩa cứng nhưng thường chỉ là để giảm tiếng ồn hoặc
dồn lại dữ liệu bị phân mảnh (Defragment) mà thôi.
- Tổng kêt lại, về đĩa cứng, bạn hãy chọn loại càng mới càng tốt với các
thông số thật lý tưởng (thời gian truy cập thấp, tốc độ quay nhanh, bộ
đệm lớn). Ngoài ra chú ý tốt nhất các ổ cứng nên giống nhau vì RAID sẽ
bị ảnh hưởng lớn từ những ổ đĩa chậm chạp hoặc dung lượng bé theo
đúng tiêu chí “một con sâu làm rầu nồi canh”.
3. Cài đặt RAID:
Việc cài đặt RAID nói chung chủ yếu dựa vào BIOS của main board và
RAID Controller và hầu như không có gì khó khăn do tính thân thiện vốn
có của sản phẩm máy tính để bàn:
- Sau khi đã cắm ổ cứng vào đúng vị trí RAID trên bo mạch (tham khảo
tài liệu đi kèm sản phẩm để biết thêm thông tin), bạn vào BIOS của
mainboard để bật bộ điều khiển RAID và chỉ định các cổng liên quan
(thường trong mục Integrated Peripherals).
- Sau thao tác này, bạn sẽ lưu thông số rồi khởi động lại máy tính. Chú ý
thật kĩ màn hình thông báo và nhấn đúng tổ hợp phím khi máy tính yêu
cầu (có thể là Ctrl+F / Ctrl+G hoặc F4 tùy bộ điều khiển RAID) để vào
BIOS RAID.
- Đối với BIOS RAID, mặc dù mỗi loại có một giao diện khác nhau
(tham khảo tài liệu đi kèm để biết cụ thể) nhưng về cơ bản bạn phải thực
hiện những thao tác và chú ý những điểm như sau:
+ Chỉ định những ổ cứng sẽ tham gia RAID.
+ Chọn kiểu RAID (0/1/0+1/5).
+ Chỉ định Block Size: Đây là chìa khóa ảnh hưởng rất lớn tới hiệu năng
của giàn ổ cứng chạy RAID. Đối với RAID dạng Stripe, Block size cũng
có nghĩa là Stripe Size. Nếu như thông số này thiết lập không phù hợp với
nhu cầu sử dụng thì sẽ gây ra lãng phí bộ nhớ và giảm hiệu năng. Lấy ví
dụ nếu Block Size có giá trị là 64KB thì sẽ có tối thiểu 64KB được ghi
vào ổ đĩa trong mọi trường hợp, ngay cả khi đó là một file text có dung
lượng 2KB. Vì thế giá trị này nên xấp xỉ tương ứng với kích thước trung
bình của các file bạn dùng. Nếu ổ cứng chứa nhiều file nhỏ ví dụ như
Web server hay tài liệu cho công ty, bạn nên để block size bé, nếu chứa
nhiều phim ảnh hoặc nhạc, block size lớn sẽ cho hiệu năng cao hơn (nhất
là với hệ thống RAID-0).
- Bên cạnh đó, block size còn có một chức năng khác, nó quyết định tới
việc file sẽ được ghi vào đâu. Quay về với ví dụ Block Size 64KB, nếu
như file có kích thước nhỏ hơn 64KB, nó sẽ chỉ được ghi vào một ổ cứng
trong hệ thống RAID và như vậy sẽ không có bất cứ sự cải thiện hiện
năng nào. Trong một trường hợp khác, một file có kích thước 150KB sẽ
được ghi vào 3 ổ đĩa với các đoạn 64KB + 64KB +22KB và bộ điều
khiển có thể đọc thông tin từ ba ổ cùng lúc cho phép tăng tốc đáng kể.
Nếu bạn chọn block size là 128KB thì file đó chỉ được ghi vào 2 ổ
128KB + 22KB mà thôi. Thực tế bạn nên chọn Block Size là 128KB cho
các máy tính để bàn trừ khi có nhu cầu riêng.
- Sau khi bộ điều khiển đã nhận biết hoàn hảo hệ đĩa cứng mới, bạn sẽ
phải tiến hành cài đặt hệ điều hành cũng như format ổ RAID. Windows
XP là một lựa chọn sáng suốt.
- Việc cài đặt Windows nói chung cũng giống như bình thường nhưng
bạn cần chú ý phải chuẩn bị một ổ đĩa mềm và đĩa mềm chứa driver cho
bộ điều khiển RAID. Ngay sau khi nhấn bàn phím để vào cài đặt, bạn
phải chú ý dòng chữ phía dưới màn hình cài Windows để nhấn F6 kịp lúc.
Sau đó hãy chờ một lát và khi được hỏi, bạn nhấn S để đưa driver RAID
vào cài đặt.
- Các bước còn lại, bạn thao tác đúng như với việc cài đặt trên một đĩa
cứng bình thường.
- Sau khi đã ổn định được hệ thống, bạn chú ý cài thêm những tiện ích
điều khiển hệ thống RAID để tận dụng được các tính năng mở rộng và
đôi khi là cả hiệu năng nữa. Có thể liệt kê một số chương trình như Intel
Application Acceleration RAID Edition hay nVIDIA RAID Manager...
Chú ý chung:
- Nếu bạn đang có một ổ đĩa đầy dữ liệu và muốn thiết lập RAID-0, bạn
sẽ phải format ổ và làm lại mọi thứ. Vì thế hãy tìm cho mình một phương
án sao lưu phù hợp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hdd_2_.PDF
- hdd_3_.PDF