Bài báo trình bày thực trạng biểu hiện hành vi hung tính của một số trẻ 5-6 tuổi ở trường
mầm non thành phố Hà Nội có đối chiếu với ý kiến của giáo viên dạy trẻ và cha mẹ của trẻ thông
qua quan sát, điều tra viết, phỏng vấn và nghiên cứu trường hợp. Hành vi hung tính của trẻ được
nghiên cứu không nhiều nhưng rất cần được quan tâm do tính chất đặc biệt của nó làm ảnh hưởng
không tốt đến bản thân trẻ và người xung quanh. Trẻ bộc lộ hung tính thông qua hành vi ngôn ngữ
và phi ngôn ngữ, theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp, trong đó thông qua hành vi phi ngôn ngữ một
cách trực tiếp tới đối tượng nhiều hơn. Trẻ em trai có biểu hiện hành vi hung tính cao hơn nhưng
không nhiều so với trẻ em gái. Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ hiện trạng biểu hiện hành vi
hung tính ở trẻ 5-6 tuổi Việt Nam, lĩnh vực còn ít được quan tâm tìm hiểu.
14 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 14/05/2022 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mạnh đồ vật xuống đất, dẫm đạp
lên đồ vật.
Các hành vi hung tính phi ngôn ngữ của trẻ
thường xảy ra bất ngờ, nhanh, rất khó kiểm soát
nên sự can thiệp của giáo viên đôi khi không
kịp thời, sẽ dẫn đến để lại vết tích, tổn thương
cho trẻ khác, ảnh hưởng đến chất lượng chăm
sóc và giáo dục. Gia đình và nhà trường cần
quan tâm tới những hành động này ở trẻ để tìm
ra được phương pháp ngăn chặn, giảm thiểu tối
đa hung tính ở trẻ.
2.5.4. So sánh hành vi hung tính của trẻ 5-6
tuổi theo giới tính
Theo kết quả quan sát, nhìn chung các bé
trai có mức độ biểu hiện hành vi hung tính cao
hơn (Điểm trung bình = 22,29) so với các bé gái
(Điểm trung bình = 18,91). Bé trai biểu hiện
hung tính bằng hành vi ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ đều cao hơn đôi chút so với bé gái (Điểm
trung bình = 10,24 so với 9,09; Điểm trung
bình = 11,71 so với 9,45). Cách thức bộc lộ
hành vi hung tính một cách trực tiếp và gián
tiếp giữa 2 giới tính cũng có sự khác nhau với
điểm trung bình lần lượt là: 11,76 so với 9,45
và 10,18 so với 9,09.
Kiểm định bằng Independent Simple T-Test
cho kết quả sig = 0,021 <p = 0,05: có sự khác biệt
biểu hiện hành vi hung tính giữa nam và nữ.
Quan sát thực tế thấy ở độ tuổi này, các bé
trai thường xảy ra nhiều xích mích, xung đột
với nhau trong khi hoạt động và chơi hơn so với
các bé gái. Khi tình huống xảy ra, bé trai dễ nổi
giận, khó kiểm soát được hành động của mình
hơn, thường chọn phương án giằng co, xô đẩy,
gây gổ với nhau để giải quyết sự việc. Trong
khi đó, với trường hợp tương tự, các bé gái sẽ
bộc lộ kín đáo hơn, sử dụng ngôn ngữ để giải
quyết vấn đề, có thể trút cảm xúc vào đồ vật
khác chứ không trực tiếp tác động đến đối
phương. Trên thực tế theo những quan sát trực
tiếp, bé trai có biểu hiện hành vi hung tính với
tần suất nhiều hơn, mức độ cao hơn. Trong các
hoạt động ở trường, các bé trai dễ xung đột và
có những hành vi gây hấn với các bạn xung
quanh, đặc biệt là giữa các bé trai với nhau, hơn
so với bé gái. Tuy nhiên sự chênh lệch không
nhiều ( Bảng 5).
N.T.N. Mai, T.T. Trang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 37, No. 1 (2021) 53-66
63
Bảng 4. So sánh biểu hiện hành vi hung tính của trẻ 5-6 tuổi theo giới tính
So sánh biểu hiện hành vi hung tính theo giới tính
Giới tính Số trẻ
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Sai số chuẩn
Hành vi hung tính
Trai 17 22,29 7,840 1,902
Gái 11 18,91 4,847 1,461
Hung tính ngôn ngữ
Trai 17 10,24 3,666 0,889
Gái 11 9,09 1,868 0,563
Hung tính phi ngôn
ngữ
Trai 17 11,71 4,552 1,104
Gái 11 9,45 3,236 0,976
Hung tính trực tiếp
Trai 17 11,76 5,056 1,226
Gái 11 9,45 2,806 0,846
Hung tính gián tiếp
Trai 17 10,18 3,087 0,749
Gái 11 9,09 2,343 0,707
Bảng 5. Biểu hiện hành vi hung tính thông qua ngôn ngữ của trẻ 5-6 tuổi theo giới tính
Biểu hiện hành vi hung tính thông qua ngôn ngữ
Nam Nữ
Điểm
trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Điểm
trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Trẻ cãi lại cô giáo khi không hài lòng 1,47 0,80 1,09 0,36
Trẻ nói hỗn với bạn bè khi bực tức 1,18 0,39 1,18 0,48
Trẻ lớn tiếng với bạn khi có mâu thuẫn, xích mích
với bạn đó
1,41 0,71 1,09 0,36
Trẻ la hét, quát tháo bạn bè trong lúc chơi đùa 1,35 0,70 1,64 0,97
Trẻ nói bậy 1,12 0,33 1,18 0,48
Trẻ giận bạn này nhưng lại nói tục với bạn khác 1,20 0,56 1,00 0,00
Khi giận dữ bạn bè, trẻ mắng chửi đồ vật xung quanh 1,00 0,00 1,00 0,00
Trong những cuộc xích mích, trẻ có những lời nói
khiêu khích bạn bè xung quanh
1,50 0,80 1,09 0,36
Ghi chú: Min = 1; Max = 3.
Sự khác biệt trong biểu hiện hành vi hung
tính giữa trẻ nam và nữ thông qua hành vi phi
ngôn ngữ có kết quả như sau (Bảng 6).
Như vậy, có thể nhận thấy có khác biệt
trong biểu hiện hành vi hung tính giữa bé trai và
bé gái tuy không nhiều. Sự khác biệt này chủ
yếu ở các hình thức biểu hiện, trong đó rõ nét
nhất là hình thức phi ngôn ngữ trực tiếp.
2.5.5. Trường hợp bé trai LS1
Tuổi: 5 tuổi 10 tháng
Tên thường gọi: Bin
Nghề nghiệp của bố: Tự do
Nghề nghiệp của mẹ: Nhân viên bán hàng.
Hoàn cảnh gia đình: Bé là con duy nhất
trong gia đình, bố mẹ đã li hôn 3 năm, hiện bé
sống cùng mẹ và ông bà ngoại.
Một số đặc điểm tâm lý: LS1 là một em bé
trí tuệ bình thường, nhanh nhẹn, quan sát tốt và
rất để ý đến những ai đang nhìn hoặc nói đến
tên mình. Trẻ dễ bị kích động, không thích chia
N.T.N. Mai, T.T. Trang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 37, No. 1 (2021) 53-66
64
sẻ, ích kỉ và thích làm mọi thứ theo ý mình,
không để ý đến người khác. Trẻ có vốn từ vựng
phong phú và khá hoạt ngôn. Trẻ để ý quan sát
rất kĩ mọi người và vật xung quanh. Trẻ nhận ra
hôm nay bạn nào đi học, trong lớp thiếu đồ
dùng gì, Vào những ngày đầu tiên người
nghiên cứu tới lớp, bé hay chạy ra hỏi “Cô viết
gì thế?”, lần khác hỏi “Cô viết tên con à?”.
LS1 rất thích tham gia các hoạt động, đặc biệt
là những hoạt động vui chơi, được vận động.
Trong tiết học, bé thường khó ngồi yên, luôn
xoay người, vận động tay chân, nói leo lời cô
giáo, nghịch đồ dùng xung quanh lớp, trêu bạn.
Đặc biệt trong hoạt động giáo dục thể chất, bé
rất thích tập và thường tranh tập với các bạn
khác. Khi các bạn tập chưa đúng thường nói
leo chê bai, cười cợt, bêu xấu bạn. Ở lớp, bé
không có bạn thân, các bạn nữ không thích chơi
cùng và hay nói “Bin ki bo”,“Bin xấu tính”. Bé
thích xem xe đua và Siêu anh hùng Batman.
Trò chơi yêu thích của bé là lắp ráp súng và dao
kiếm sau đó giả vờ đi bắn mọi người xung
quanh. Khi chơi cùng các bạn, bé luôn chủ
động lấy những miếng ghép mình cần từ các
bạn khác và khi các bạn đòi thường lờ đi. Bé
không thích xếp hàng và hay chen lấn, đẩy bạn
đằng trước, thích đứng ở giữa hoặc phía trên.
Khi được cô quan tâm trò chuyện, bé thường
tránh né nói về cảm xúc của mình.
Biểu hiện hành vi hung tính của trẻ khi
ở trường:
Điểm biểu hiện hành vi hung tính của LS1
theo quan sát: 38 điểm - Mức độ 3.
Bảng 6. Biểu hiện hành vi hung tính thông qua hành vi phi ngôn ngữ của trẻ 5-6 tuổi theo giới tính
Biểu hiện hành vi hung tính thông qua phi ngôn ngữ
Nam Nữ
Điểm trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Điểm
trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Trẻ sử dụng vật dụng bất kỳ để đánh bạn 1,50 0,80 1,36 0,81
Trẻ sử dụng bộ phận cơ thể gây đau đớn cho người khác 1,94 0,90 1,09 0,36
Khi thấy các bạn đánh nhau trẻ thích thú đứng xem và
xông vào đánh cùng
1,68 0,90 1,00 0,00
Trẻ bị kích động khi bạn giật đồ chơi 1,53 0,72 1,36 0,81
Trẻ xích mích với bạn này nhưng lại đánh bạn khác 1,50 0,80 1,00 1,25
Khi bực tức trẻ thường hậm hực và có hành vi mạnh với
đồ vật xung quanh
1,40 0,51 1,27 0,77
Khi nổi giận với ai trẻ thường đập phá đồ đạc của họ 1,50 0,62 1,27 0,77
Khi nổi giận, trẻ có hành vi ăn vạ 1,50 0,80 1,27 0,77
Ghi chú: Min = 1; Max = 3.
Những biểu hiện thường xuyên của trẻ: cãi
lại cô; la hét, quát tháo bạn khi chơi; sử dụng bộ
phận cơ thể đánh bạn; trẻ kích động khi bị bạn
lấy đồ và xông vào đánh bạn; hành vi mạnh với
đồ vật xung quanh; khi nổi giận với ai trẻ
thường đập phá đồ đạc của họ. Nếu có bạn
giành lại hoặc cầm đồ chơi mà LS1 đang chơi,
bé thường hét lên “Nào” “Đi ra” “Trả đây” và
lấy tay đập vào lưng, dùng chân đạp bạn. Ngoài
ra, bé hay có hành động tranh giành với các bạn
trong lớp. Khi cô giáo bảo cả lớp lấy ghế, bé
thường chạy ra giằng ghế của bạn, có khi nhấc
ghế ra cố tình làm vướng, va vào người bạn
khác và tỏ ra thích thú. Cả trong giờ ăn và giờ
ngủ cũng vậy, bé thường lấy thìa và tranh
giường với các bạn. LS1 hay chen lấn, đẩy bạn
đằng trước. Khi được cô giáo nhắc nhở, bé
thường tỏ ra cứng đầu, đổ lỗi “bạn trêu con”
“cái này của con”, không nghe theo lời cô. Có
lần trong giờ chơi LS1 tranh đồ chơi, hét to,
N.T.N. Mai, T.T. Trang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 37, No. 1 (2021) 53-66
65
đánh bạn, cô giáo nghiêm khắc ra cầm tay bé
yêu cầu đứng lên và ngồi vào ghế, LS1 giằng
tay cô ra, lấy tay còn lại đập vào tay cô và kiên
quyết ngồi lì xuống, không nghe lời.
Sự chăm sóc của gia đình và mối quan hệ
của trẻ với người lớn: Do bố mẹ li hôn khi bé
còn nhỏ nên ông bà rất thương và chiều cháu.
Trẻ ít khi được gặp bố. Mẹ đi làm cả ngày nên
chủ yếu ông bà là người chăm sóc nhiều nhất
cho bé. Bà có chia sẻ với cô giáo: “Mẹ đi làm về
là chỉ cầm điện thoại, toàn tôi chăm là chủ yếu.
Ở nhà mẹ nói “nó” chả nghe, chỉ bám tôi và
ông nó thôi”. Bé thường tự chơi một mình với
đồ chơi hoặc xem ipad, tivi.
Cách ứng xử của cô giáo với trẻ: khi trẻ
không tập trung chú ý trong giờ học, cô chỉ
nhắc nhở 1-2 lần rồi thôi, “Ngày nào cũng thế,
chị chả nói được”. Nếu trẻ gây gổ, cãi nhau với
bạn, cô thường yêu cầu ra ngồi ghế, phê bình
trẻ. Tuy nhiên bé thường tỏ thái độ không hợp
tác, tỏ ra không biết và nếu cô có thái độ dứt
khoát, lời nói răn đe hơn, bé sẽ giãy khóc, khua
tay đạp chân. Cô H. có chia sẻ “biết bạn này
tính như thế nên nhiều khi mình phải chiều
theo, nhẹ nhàng nhắc nhở nếu không lại ăn vạ,
gây ảnh hưởng cho lớp lắm”.
Nhận xét và phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến hành vi hung tính ở trẻ: Quan sát và tìm
hiểu thêm về gia đình trẻ cho nhận định: hoàn
cảnh gia đình có thể là yếu tố ảnh hưởng nhiều
nhất đến tình cảm, nhận thức, hành vi của trẻ.
Tuổi này trẻ đặc biệt cần tình yêu thương của
người thân, nhất là cha mẹ nhưng LS1 phải chịu
cảnh cha mẹ li hôn. Đây là yếu tố gây tổn
thương về mặt tâm lý - tình cảm cho bé. Mẹ bận
rộn ít quan tâm. Bố ít khi gặp. Ông bà ngoại vì
thương nên rất chiều, ít nhắc nhở, uốn nắn cháu
và luôn đáp ứng theo mọi ý thích của bé. Có thể
do thiếu tình cảm của cha, sự quan tâm chăm
sóc của mẹ làm bé có trạng thái cảm xúc tiêu
cực kết hợp với sự nuông chiều của ông bà đã
khiến bé trở nên hung hăng, bướng bỉnh, không
để ý đến người xung quanh và chỉ hành động
theo ý muốn của mình. Cũng vì vậy khi đến
trường, trẻ rất dễ bị kích động, khó kiểm soát
được cảm xúc, hành vi của bản thân.
3. Kết luận
Thực trạng hành vi hung tính của trẻ 5-6
tuổi được nghiên cứu cho thấy trẻ bộc lộ hung
tính chủ yếu để giải tỏa những cảm xúc tiêu cực
bên trong thông qua hành vi ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ, theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Hành vi hung tính của trẻ được nghiên cứu ở
lứa tuổi này không nhiều nhưng rất cần quan
tâm tìm hiểu và giáo dục. Không có khác biệt
lớn giữa trẻ trai và trẻ gái dù trẻ trai có mức độ
hung tính cao hơn đôi chút. Trẻ bộc lộ hung
tính thông qua cả hành vi ngôn ngữ và phi ngôn
ngữ một cách trực tiếp và gián tiếp nhưng có xu
hướng nghiêng về hành vi phi ngôn ngữ trực
tiếp. Với những trẻ này, cần quan tâm đến hoàn
cảnh và đời sống tâm lý của bé để thấu hiểu và
có hướng giúp đỡ, giáo dục. Làm sao để trẻ
hiểu đây là hành động không nên làm, hướng
dẫn trẻ cách kiểm soát những cảm xúc và hành
vi tiêu cực; giúp trẻ cảm nhận được tình yêu
thương và dạy trẻ cách thể hiện tình yêu thương
với mọi người và vật xung quanh; dạy trẻ cách
giải quyết, ứng xử phù hợp trong những tình
huống tranh giành đồ chơi, trêu đùa với bạn
Quan trọng nhất là gia đình và nhà trường cần
quan tâm yêu thương và giáo dục trẻ bằng tình
cảm một cách phù hợp, không sử dụng những
phương pháp răn đe, trừng phạt mang tính bạo
lực. Thực trạng này cần được tiếp tục tìm hiểu
làm rõ các yếu tố ảnh hưởng để có cơ sở đề ra
những biện pháp giúp giảm thiểu hành vi và
ảnh hưởng tiêu cực của loại hành vi này.
Tài liệu tham khảo
[1] S.L.D.D. Barry, H. Schneider, N. Sébastien,
Conduites agressives chez l’enfant - Perspectives
développementales et psychosociales, Presses de
l’Université du Quebec, 2009, pp. 3-7.
[2] T.T.M. Duc, Hostile behaviors analyzed from a
psychosocial perspective, National University
Press, Hanoi, 2010 (in Vietnamse).
[3] N.T.T. Anh, Discuss the causes, impacts, and
manifestation of aggressive behaviors in
elementary students, Ho Chi Minh City University
of Education Press, 2012 (in Vietnamese).
[4] E.R. Tremblay, Prévenir la violence dès la petite
enfance, Odile Jacob, Paris, 2008.
N.T.N. Mai, T.T. Trang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 37, No. 1 (2021) 53-66
66
[5] M.P.M. Drolet, R. Hasanb(collaboration de), La
violence au préscolaire et au primaire - Les défis
et les enjeux de la collaboration entre l’école et les
parents, Presses de l’Université du Québec, 2006.
[6] S.L.D.D. George, M. Tarabulsy, A. Marc,
Provost, Jean - Pascal Lemelin, André Plamondon
et Caroline Dufresne, Développement social et
émotionnel chez l’enfant et l’adolescent -
Applications platiques et cliniques, Tome 2 -
Samuel Giroux et Marie - Claude Guay: Chapitre
5 - TDAH et comportements agressifs: impact sur
le développement psychoaffectif de la petite
enfance à l’âge adulte, Presses de l’Université du
Québec, 2012, pp. 131-136.
[7] N.T.N. Mai, Pediatric Psychopathology at
preschool age, University of Education Press,
Hanoi, 2018 ( in Vietnamese).
[8] T.T. Tham, Current situation of child’s aggressive
behavior in interacting with friend from 24
months to 36 months, Education Journal Special
Edition April, 2016, pp. 44-48 (in Vietnamese).
[9] D. Marcelli, Enfance et psychopathologie,
Masson, 2009, pp. 228-232.
[10] H. Piéron, Vocabulaire de la psychologie,
Quadrige/Presses Universitaires de France, 1992,
pp. 11.
[11] S.J. Postel, Dictionnaire de Psychiatrie et
de psychopathologie clinique, Larousse, Paris,
1993, pp. 1-7.
[12] G.M. Tarabulsy, R. Tremblay (dir.),
Le développement émotionnel et social de
l’enfant, Saint- Foy, Presses de l’Université de
Québec, 1996.
Y
o
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_bieu_hien_hanh_vi_hung_tinh_cua_tre_5_6_tuoi_o_truong_ma.pdf