Các thành tạo Trước Kainozoi không những chỉ lộ trên bề mặt thạch quyển thuộc phần đất liền, các đảo, mà còn bị chôn vùi thành móng của hầu hết các bể trầm tích khác nhau cả trên đất liền và ngoài khơi Việt Nam. Một số các thành tạo này đã có các biểu hiện dầu khí, trong đó đã phát hiện được nhiều tầng chứa hydrocarbon quan trọng có tuổi Paleozoi và Mesozoi (Hình 15.1).
Phần lớn các tầng chứa lộ trên mặt chỉ biểu hiện các sản phẩn biến đổi của dầu khí đó là asphalt và đá phiến cháy. Các biểu hiện này phân bố rất rộng trong các thành tạo Trước Kainozoi của Việt Nam,
song ít được chú ý thăm dò do giá trị kinh tế thấp. Các điểm lộ dầu lỏng hay quánh trong các thành tạo Trước Kainozoi được phát hiện trên đất liền Việt Nam rất hạn chế như vùng Núi Lịch (Yên Bái) và ở đầm Thị Nại (Quy Nhơn). Tuy vậy, trong móng của các bể trầm tích Đệ Tam khác nhau (cả
trên đất liền và ngoài khơi Việt Nam cũng như nhiều vùng lân cận) đã phát hiện được nhiều tầng chứa dầu Trước Kainozoi quan trọng. Các biểu hiện khí (chủ yếu là khí metan) trong các thành tạo Trước Kainozoi khá phổ biến trên đất liền Việt Nam, đặc biệt là trong các bể trầm tích chứa than
Trias. Phát hiện, thăm dò và đánh giá các biểu hiện của hệ thống dầu khí trong các thành tạo Trước Kainozoi có những mức độ, quan điểm và kết quả khác nhau qua các giai đoạn nghiên cứu địa chất ở Việt Nam.
64 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1102 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Các bể trầm tích trước Kainozoi và tài nguyên dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Các bể
trầm tích
trước Kainozoi
và
tài nguyên
dầu khí
15
455
Chương 15. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
Cũng như một số khoáng sản khác của
Việt Nam, dầu khí trong một số thành tạo
Trước Kainozoi đã được phát hiện từ đầu
thế kỷ 20. Song do nhiều điều kiện và
hoàn cảnh khác nhau, các đối tượng này đã
không được chú ý thăm dò. Cuối thế kỷ 20,
nhờ nhiều phát hiện mỏ dầu khí trong các
tầng chứa móng của các bể trầm tích khác
nhau, các thành tạo Trước Kainozoi đã trở
thành đối tượng hấp dẫn về tiềm năng dầu
khí và được quan tâm nhiều hơn ở Việt
Nam hiện nay.
2. Thăm dò và phát hiện dầu khí trong
các thành tạo Trước Kainozoi ở Việt
Nam
Các thành tạo Trước Kainozoi không
những chỉ lộ trên bề mặt thạch quyển thuộc
phần đất liền, các đảo, mà còn bị chôn vùi
thành móng của hầu hết các bể trầm tích
khác nhau cả trên đất liền và ngoài khơi
Việt Nam. Một số các thành tạo này đã
có các biểu hiện dầu khí, trong đó đã phát
hiện được nhiều tầng chứa hydrocarbon
quan trọng có tuổi Paleozoi và Mesozoi
(Hình 15.1).
Phần lớn các tầng chứa lộ trên mặt chỉ
biểu hiện các sản phẩn biến đổi của dầu
khí đó là asphalt và đá phiến cháy. Các
biểu hiện này phân bố rất rộng trong các
thành tạo Trước Kainozoi của Việt Nam,
song ít được chú ý thăm dò do giá trị kinh
tế thấp. Các điểm lộ dầu lỏng hay quánh
trong các thành tạo Trước Kainozoi được
phát hiện trên đất liền Việt Nam rất hạn
chế như vùng Núi Lịch (Yên Bái) và ở đầm
Thị Nại (Quy Nhơn). Tuy vậy, trong móng
của các bể trầm tích Đệ Tam khác nhau (cả
trên đất liền và ngoài khơi Việt Nam cũng
như nhiều vùng lân cận) đã phát hiện được
nhiều tầng chứa dầu Trước Kainozoi quan
trọng. Các biểu hiện khí (chủ yếu là khí
metan) trong các thành tạo Trước Kainozoi
khá phổ biến trên đất liền Việt Nam, đặc
biệt là trong các bể trầm tích chứa than
Trias. Phát hiện, thăm dò và đánh giá các
biểu hiện của hệ thống dầu khí trong các
thành tạo Trước Kainozoi có những mức
độ, quan điểm và kết quả khác nhau qua
các giai đoạn nghiên cứu địa chất ở Việt
Nam.
2.1. Phát hiện dầu khí Trước Kainozoi
thời kỳ lập bản đồ địa chất trước
năm 1960
Các biểu hiện dầu khí trong các thành
tạo Trước Kainozoi đã được phát hiện khá
sớm (1910) trên đất liền Việt Nam tại vùng
Núi Lịch (Yên Bái) từ những ngày khởi đầu
của công tác khảo sát và lập bản đồ địa
1. Giới thiệu
456
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Hình 15.1. Vị trí phân bố các biểu hiện và phát hiện dầu khí Trước Kainozoi của Việt Nam và kế cận
1-4 - Móng Pre-Cz của các bể Đệ Tam gồm: 1-granitoid Mz móng bể Cửu Long; 2-granitoid Mz và đá khác
của các bể Nam Côn Sơn; 3-trầm tích Pz, ít magma Mz móng đa dạng bể Sông Hồng; 4-trầm tích Pz, ít Mz
và magma móng thềm Tây Nam.
5-14 - Khí và condensat Pre-Cz: Ia (5-9) metan trong bể than Trias, 5-phải sông Đà, 6-trái sông Đà, 7-Tây
Thái Nguyên, 8-Quảng Ninh, 9-Nông Sơn; Ib (10-12) trong các bể Mz, 10-Viêng Chăn, 11-Savannakhet, 12-
Khorat; Ic (13-14) mỏ, 13-carbonat Pz Nam Phong, 14-cát kết Mz.
15-21 - Dầu Pre-Cz: IIa trong carbonat Pz, 15-vùng núi Lịch (Yên Bái), 16-móng Đông Bắc và 17-móng
Nam bể Sông Hồng; IIb mỏ trong carbonat Pz, 18-móng bể Tây Lôi Châu, 19-móng bể Chumphon; IIc mỏ
trong granitoid Mz, 20-móng bể Cửu Long, 21-móng Đại Hùng.
22-25 - Các điểm lộ asphalt và phiến cháy Pre-Cz (III): 22-trong carbonat Mz vùng Sơn La; 23-trong
carbonat Pz đảo Cát Bà; 24-trong cát kết thượng (Mz) suối vùng Mường Pha Lan; 25- trong cát kết Mz2 đảo
Phú Quốc.
457
Chương 15. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
chất (Durandin 1914, 1915). Vài năm sau
đó đã tiến hành khoan 1 giếng thăm dò và
phát hiện được các thân cát, các thấu kính
đá vôi Devon bị nứt nẻ hang hốc có chứa
dầu, song vì quy mô quá nhỏ nên đã bị gác
lại (Dusault 1921). Trong các năm 1950 -
1952, asphalt trong các thành tạo Mesozoi
thuộc Tây Bắc đã được phát hiện và khai
thác để phục vụ nhu cầu địa phương (ảnh
15.1).
2.2. Thăm dò dầu khí Trước Kainozoi
theo phương pháp truyền thống sau
năm 1960
Tìm kiếm và thăm dò dầu khí theo
phương pháp truyền thống đã được tiến
hành cùng với công trình tổng hợp về địa
chất dầu khí đầu tiên ở Việt Nam (Kitovani,
1964). Thăm dò dầu khí được tiến hành theo
quy hoạch trong đó các đối tượng Trước
Kainozoi thuộc miền Bắc Việt Nam được
xếp sau miền võng Hà Nội (MVHN).
Bể Mesozoi An Châu đã được tiến
hành tìm kiếm, thăm dò theo phương pháp
truyền thống hướng vào các đối tượng cấu
tạo thuộc các tập trầm tích Mesozoi lấp
đầy bể. Do đó các giếng khoan thăm dò
chỉ dừng lại trong các đối tượng tạo bể mà
không khoan tới móng Paleozoi. Kết quả
tìm kiếm, thăm dò bể trong suốt thập kỷ
70 của thế kỷ 20 chưa phát hiện được các
biểu hiện dầu khí, trong khi đó các sản
phẩm biến đổi của hydrocarbon dưới dạng
asphalt và đá phiến cháy phân tán phổ biến
và có nơi khá tập trung trong các đá phiến
vôi Paleozoi thuộc miền Bắc Việt Nam và
Nam Trung Quốc.
Các điểm lộ dầu và asphalt trong các
thành tạo Trước Kainozoi vùng Yên Bái,
Sơn La, Quy Nhơn đã được điều tra và đánh
giá lại trong nhiều năm cuối thế kỷ 20 (1973
- 1982) cho thấy chúng có qui mô nhỏ (Lê
Thành và nnk. 1997 [5]). Tuy vậy hàng loạt
các diện lộ khác của các thành tạo Trước
Kainozoi chứa asphalt, phiến cháy, bitum
thuộc nhiều khu vực Đông Bắc, Việt Bắc
và nhiều nơi khác chưa được thăm dò và
đánh giá. Trong khi đó nhiều diện phân bố
Ảnh 15.1. Dấu vết còn lại của một số các hào, hố khai thác asphalt trong các năm 1952-1956
tại thung lũng bản Sài Lương - huyện Mai Sơn (chưng 1.000 kg asphalt được 5-10 kg dầu)
458
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
asphalt do các công trình xây dựng và làm
đường mới lộ ra ở Sơn La đang bị khai thác
thủ công một cách tự do (ảnh 15.2).
Một số phát hiện “than” và “huyền”
trong các thành tạo Mesozoi (Theo kết quả
nghiên cứu bào tử phấn: asphalt Sài Lương,
than To Pan có tuổi Đệ Tam) có nhiều dấu
hiệu liên quan với dầu khí và asphalt. Mỏ
“than” dính - ướt Tô Pan (Sơn La), chứa
than cháy rất nhanh, ít tro, mùi khét nhựa
đường, toả nhiệt rất cao giống với asphalt
Mường Tùng (Sơn La). Than “huyền” trong
hệ tầng trầm tích Mesozoi đảo Phú Quốc
có tỷ lệ asphalt cao với vết vạch mầu nâu
và khi bắt cháy đều cho mùi nhựa đường.
Ngoài các biểu hiện dầu và asphalt,
trên đất liền Việt Nam còn có nhiều các
biểu hiện khí metan trong các bể trầm tích
chứa than Trias thuộc nhiều khu vực như
Quảng Ninh, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn
La, Hoà Bình, Nông Sơn và nhiều nơi khác
(Hình 15.1). Do chú trọng việc khai thác
than nên nguồn khí này đã bị lãng phí ngày
một thêm trầm trọng (T.N. Toản 2003).
2.3. Tìm kiếm, thăm dò các đối tượng
Trước Kainozoi theo phân tích bể và
play
Phát hiện các tích tụ và mỏ dầu khí lớn
trong các tầng chứa móng Trước Kainozoi
của nhiều bể trầm tích Đệ Tam khác nhau
thuộc Việt Nam và một số vùng lân cận
trong nhiều năm gần đây không những
chỉ có giá trị kinh tế rất lớn mà còn thúc
đẩy mạnh việc vận dụng các phương pháp
“phân tích bể” và đánh giá “play”
“Phân tích bể” đã khôi phục lại những
điều kiện động lực hình thành, phát triển,
trưởng thành, già cỗi và biến dạng của các
bể Trước-Kainozoi. Điều này đã thể hiện
trong đánh giá các bể Mesozoi Khorat và
phát hiện mỏ khí Nam Phong (1987). Phân
tích bể giúp cho việc đánh giá lại tiềm năng
dầu khí Trước Kainozoi của Nam Việt Nam
và Thái Lan có thêm nhiều thông tin đối
sánh mới (1995 - 1997) giữa các mỏ dầu
Ảnh 15.2. Hang khai thác asphalt (địa phương gọi là đá dầu) trong đá vôi Permi-Trias Sơn La nằm ven
đường từ bản Nà-Tòng đến ủy-ban Nhân dân xã Mường Tùng huyện Mường Lay - Sơn La
(P.T. Điền, 12-2000)
459
Chương 15. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
trong các tầng chứa móng Trước Kainozoi
như carbonat (NangNuan) và granitoid
(Rạng Đông, Bạch Hổ). Đánh giá “play”
đã thực sự được áp dụng khi phân tích bể
Meso - Tethys Sông Đà (2002 - 2003).
3. Khái quát khung cấu trúc của các
thành tạo Trước Kainozoi ở Việt
Nam
Các đơn vị thành hệ - cấu trúc Trước
Kainozoi lộ trên đất liền rất đa dạng, phức
tạp vì chúng liên quan với nhiều hệ thống
cấu trúc khác nhau và đã trải qua nhiều
thời kỳ tiến hoá kế tiếp nhau. Hầu hết các
đặc điểm ban đầu của các thành tạo Trước
Kainozoi đã bị biến đổi và chỉ để lại một số
dấu vết với mức độ bảo tồn khác nhau trên
bình đồ cấu trúc hiện trạng trong khu vực.
Hiện tồn tại rất nhiều mô hình cấu trúc,
kiến tạo khác nhau về các thành tạo Trước
Kainozoi thuộc phần lãnh thổ Việt Nam
(T.V. Trị và nnk. 1978, P.C. Tiến và nnk.
1989, N.X. Bao và nnk. 1990, N.X. Tùng,
T.V. Trị và nnk. 1992, L.D. Bách và nnk.
1996 v.v...). Để dựng lại những nét cơ bản
của các bể Trước-Kainozoi, không những
chỉ dựa trên cơ sở một số đặc điểm thành
phần của các thành tạo này mà cần hiểu
rõ qui luật phân bố, tiến hoá của chúng
trong mối liên kết toàn khu vực Đông Nam
A. Bình đồ cấu trúc hiện trạng thể hiện rõ
Đông Nam Á là nơi “gặp gỡ” của các đại
dương (Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương)
và các đại lục (Âu - Á và Ấn - Úc). Phân tích
mô hình hiện trạng, khung cấu trúc Trước
Kainozoi của Việt Nam thuộc 4 miền chính
như sau (Hình 15.2):
• Miền cấu trúc uốn nếp và lớp phủ nền
Bắc Bộ;
• Miền cấu trúc khối lục địa Đông
Dương;
• Miền cấu trúc á kinh tuyến Shan Thái ;
• Miền cấu trúc bị chôn vùi dưới Biển
Đông.
Tuy vậy, các đơn vị thành hệ - cấu trúc
Trước Kainozoi còn liên quan với nhiều
quá trình phát triển kiến tạo do lịch trình
tiến hoá của các mảng Âu - Á, lục địa
Gondwana, các đại dương Tethys, các bể
nội lục khác nhau. Trên cơ sở phân tích các
yếu tố (tiêu chí) cấu trúc và thành phần
(thành hệ - cấu trúc), mỗi miền cấu trúc
đều có những đặc điểm riêng về quy luật
phân đới và đặc điểm của các tổ hợp thành
phần của vỏ thạch quyển trong từng đới
(Hình 15.3).
3.1. Miền cấu trúc uốn nếp và vùng phủ
nền Trước Kainozoi Bắc Bộ (I)
Đây là hệ thống cấu trúc có nhiều tên
gọi khác nhau như “miền cấu trúc vỏ lục
địa Việt - Trung” (chương 4) hay “nền Việt
- Hoa” thuộc chuẩn nền Dương Tử (Trần
Văn Trị và nnk. 1977) v.v... Miền cấu trúc
này là phần nối tiếp về phía Nam của các
đới thành hệ cấu trúc Đông - Nam Trung
Quốc. Phía Tây - Nam tiếp giáp với miền
cấu trúc khối lục địa Đông Dương theo đứt
gãy khâu Sông Mã; phía Tây tiếp giáp với
miền cấu trúc á kinh tuyến Shan Thái theo
đứt gãy trượt bằng Điện Biên - Lai Châu
- Uttaradit. Phần lớn các đới cấu trúc uốn
nếp của miền này đều có dạng tuyến. Các
đới uốn nếp cổ nhất của miền này là địa
khiên Proterozoi bị biến chất rất mạnh
thuộc đới Sông Hồng. Các khối uốn nếp địa
khiên Proterozoi - Cambri dưới thuộc đới
Nậm Cô và Sông Chảy bị biến chất vừa.
460
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Hình 15.2. Sơ đồ các miền cấu trúc chính trên đất liền Việt Nam liên quan với khu vực Đông Nam Á
(Theo Bunopas, Vella 1992 và sơ đồ địa chất Đông Á của Tsuchida và Wakita, 1999)
Chỉ dẫn
I. Miền cấu trúc uốn nếp và lớp phủ nền Bắc Bộ: Ia - Đới uốn nếp Tây Bắc; Ib - Đới uốn nếp - biến chất
địa khiên Sông Hồng - Sông Chảy - Phú Ngữ; Ic - Đới uốn nếp địa khiên Duyên hải Đông Bắc; Id - Lớp
phủ nền Việt Bắc rìa Nam nền Dương Tử.
II. Miền cấu trúc địa khối Đông Dương: IIa - Đới uốn nếp dạng khối Trường Sơn; IIb - Địa khối cổ Kon
Tum; IIc - Đới cung đảo - núi lửa cổ Tây Nam Kon Tum; IId - Cung va chạm xâm nhập - phun trào
Mesozoi muộn Đà Lạt; IIe - Đới biển hồ sót Mesozoi Khorat - Savanakhet; IIf - Đới cấu trúc Paleozoi-
Mesozoi Tây Nam.
III. Miền cấu trúc á kinh tuyến Shan-Thái: IIIa - Đới uốn nếp Mường Tè và bể Mesozoi Phong Sa Lỳ; Các
đới khác không có trong Việt Nam.
IV. Miền cấu trúc Trước Kainozoi bị chôn vùi dưới thềm lục địa Việt Nam và các khối lục địa sót Hoàng Sa
và Trường Sa: IVa - Móng trềm tích Pz-Mz vịnh Bắc Bộ; IVb - Móng trầm tích Pz và magma Mz Bắc
Trung Bộ; IVc - Cung magma Mz móng thềm Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ; IVd - Móng trầm tích
và trầm tích núi lửa Pz-Mz thềm lục địa Tây Nam. Các đới cấu trúc Trước Kainozoi khác lân cận không
thuộc Việt Nam như Himalaya - V, xem trong chương 4.
461
Chương 15. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
Hình 15.3. Các đới thành hệ - cấu trúc và biểu hiện dầu khí Pre-Cz của Việt Nam và kế cận
(Tổng hợp từ các bản đồ địa chất Campuchia, Lào và Việt Nam, P.C.Tiến và nnk. 1989; bản đồ địa chất
Thái Lan của S.Bunopas, P.Vella, 1992; bản đồ địa chất Trung Quốc của Ma Lifang và nnk., 1996 và nhiều
tài liệu khác)
1 - Lớp phủ trầm tích N2-Q ven bờ, biển; 10 - Đới xâm nhập - núi lửa Mz2 do va chạm;
2 - Lớp vỏ đại dương E3-N1 đáy Biển Đông; 11 - Các bể Mz có than T3n-r - metan;
3 - Móng granitoid Mz của bể Cửu Long; 12 - Các bể trầm tích - phun trào axit Mz;
4 - Móng magma Mz, ít các đá Pz khác; 13 - Đai núi lửa giữa - trước cung Pz3-Mz;
5 - Móng Pre-Cz của Trường Sa Hoàng Sa; 14 - Nêm tăng trưởng turbidit - flysh Mz;
6 - Móng trầm tích Pz-Mz của nhiều bể; 15 - Bể Meso-Tethys Sông Đà và Qinghai;
7 - Móng Pz-Mz đa dạng bể Sông Hồng; 16 - Paleo - Tethys, và Tethys nông Pz2-3;
8 - Bể trước núi Mz2 vụn thô màu nâu-đỏ; 17 - Các đới uốn nếp Caledoni (S3 - D1);
9 - Magma nhiều pha tạo núi Mz2 Tú Lệ; 18 - Các khối lộ lục địa nguyên khai Ar-Pr.
Địa danh và sự phân bố của các biểu hiện và phát hiện dầu khí Trước Kainozoi xem hình 15.1.
462
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Các thành tạo magma mafic, siêu - mafic
(ophiolit) kiểu vỏ đại dương cổ và trầm tích
biển Paleozoi sớm - giữa (Paleo - Tethys)
đều bị biến dạng từ biến chất thấp đến biến
chất mạnh do uốn nếp Caledoni, trong đó
có các đai uốn nếp dạng tuyến thuộc các
đới Sông Mã, Cô Tô - Tấn Mài. Các lớp
phủ nền Paleozoi giữa - trên phân bố bình
ổn trong các biển nền Tethys nông với
chiều dày và diện phân bố ổn định đặc biệt
trong vùng Việt Bắc (Bắc Sơn). Song từ
cuối Permi và đặc biết trong Mesozoi sớm,
các hoạt động kiến tạo - magma đã biến
cải miền cấu trúc này thành nhiều đới khác
nhau gồm: đới uốn nếp dạng tuyến Tây Bắc
(Tây Nam Bắc Bộ); các đới uốn nếp - địa
khiên Paleozoi và nền Việt Bắc; các cấu
trúc nội lục Mesozoi Đông Bắc Bắc Bộ.
a. Đới uốn nếp dạng tuyến Tây Bắc (Ia)
Đới uốn nếp này là phần kéo dài về
phía Đông - Nam của đới Quinghai - Xizang
- Tây Vân Nam tới Lai Châu - Ninh Bình
theo hướng TB - ĐN ra biển (Nam vịnh Bắc
Bộ, Hình 15.2 và 15.3). Phía Tây Nam đới
uốn nếp Tây Bắc tiếp giáp với các khối
Trường Sơn (Mesozoit Việt - Lào) qua đứt
gãy khâu Sông Mã; phía Tây tiếp giáp với
đới Mường Tè qua đứt gãy Điện Biên - Lai
Châu; phía Đông Bắc tiếp giáp với vùng
nền và địa khiên Việt Hoa qua hệ thống đứt
gãy Sông Hồng. Đây là đới thành hệ - cấu
trúc Trước Kainozoi phức tạp và đa dạng
nhất trong khu vực. Các thành tạo kiểu
Paleo - Tethys và nền Tethys nông phân
bố trên các đới nâng rìa Tây Nam và Đông
Bắc; còn trong Trung tâm lại phân bố rộng
rãi các thành tạo phun trào mafic và trầm
tích biển khơi carbonat và carbonat - lục
nguyên Permi - Trias. Đây là đặc trưng tiêu
biểu của hệ thống cấu trúc Mesozoi chỉ tồn
tại trong đới Sông Đà - Ninh Bình. Sự phổ
biến rộng rãi của các phức hệ magma mafic
và các tập trầm tích biển khơi Mesozoi sớm
chỉ rõ sự tồn tại của một nhánh đại dương
mới được hình thành vào cuối Permi đầu
Trias và phát triển cực đại trong Trias sớm -
giữa, nối liền với Meso - Tethys rộng hơn ở
Tây Nam Trung Quốc, sang Tây Nam Á và
Nam Âu. Tuy vậy, Meso - Tethys Sông Đà
là nhánh đại dương hẹp hình thành trong
Permi - Trias do tách giãn đáy bể sau cung
Tethys nông hậu - Hercyni, phát triển chủ
yếu trong Trias sớm - giữa và kết thúc vào
cuối Trias muộn do chịu ảnh hưởng của
uốn nếp Indosini và các chuyển động tạo
núi Mesozoi muộn. Nhiều tác giả khác cho
rằng Meso - Tethys Sông Đà này là một
tách giãn (rift) nội lục (chương 4). Uốn nếp
Indosini đã tác động mạnh lên toàn bộ các
thành tạo từ Carni trở về trước và hình thành
đới uốn nếp dốc đứng có trục kéo dài hướng
TB - ĐN dọc theo sông Đà qua Ninh Bình
ra biển. Đặc điểm này cho thấy cuối Trias
đã có sự hội tụ của các khối lục địa Đông
Dương di động từ phía Tây - Nam tới và
chạm với mảng lục địa kết chắc Việt Hoa
phía Đông Bắc, trong đó đai uốn nếp Tây
Bắc là đới thúc trồi khi Meso - Tethys Sông
Đà bị tiêu biến. Pha tạo núi Mesozoi muộn
thể hiện rõ nhất trong đới Tú Lệ thuộc Tây
Bắc với các thành tạo molas màu đỏ trước
núi (foreland) và các phức hệ phun trào-
xâm nhập magma đa pha mang tính kiềm
cao. Tạo núi Mesozoi muộn đã kết cấu lại
diện mạo của Bắc Bộ và Trường Sơn, hình
thành các khối, các đới nâng tương phản
với các bể nội lục và các trũng trước - núi.
Tiêu biểu nhất là sự thu hẹp Meso - Tethys
463
Chương 15. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
Sông Đà và hình thành dãy núi Phăng Xi
Păng cao nhất Đông Dương trên cánh trồi
đứt gãy nghịch Sông Đà (ảnh 15.3).
b. Vùng nền và các đới uốn nếp Caledoni
kiểu địa khiên Đông Bắc (Ib, Ic, Id)
Đây là vùng phủ nền Paleozoi giữa -
trên Việt Bắc (Id) phân bố rộng, ổn định
và nằm kề gối trên các đới địa khiên biến
chất - uốn nếp Proterozoi và Paleozoi dưới
- giữa thuộc các đới Sông Hồng - Sông
Chảy (Ib) và đới Cô Tô, Tấn Mài (Ic). Đới
Cô Tô - Tấn Mài là phần kéo dài của đới
Caledoni Cathaysia Đông Nam Trung Quốc
- Ic (Hình 15.2, 15.3).
Cấu trúc uốn nếp Caledoni chỉ thật điển
hình trong vùng duyên hải Quảng Ninh nối
liền với đai uốn nếp Caledoni Cathaysia.
Thành tạo tiêu biểu cho đới là các tập trầm
tích và trầm tích núi lửa dạng flys tuổi
Ordovic muộn - Silur hệ tầng Tấn Mài/Cô
Tô. Các thành tạo này phân bố thành các
dải kéo dài hướng tây nam tới đông bắc qua
Tấn Mài và nhiều đảo ngoài biển trong đó
có quần đảo Cô Tô. Chúng đều có cấu trúc
phân nhịp dạng flys bị biến chất và uốn nếp
dốc đứng.
Các tập phủ nền gối chờm lên các đới
uốn nếp địa khiên nêu trên. Chúng phân
bố rộng trong các vùng Việt Bắc, vịnh Bái
Tử Long và Hạ Long với chiều dày ổn
định (1.000 - 1.500m) có thành phần chủ
yếu là trầm tích carbonat Tethys nông tuổi
Paleozoi giữa - muộn. Trên đảo Cát Bà lộ
ra rất nhiều đá vôi Paleozoi muộn chứa các
dải vật chất hữu cơ bị than hoá, tương tự
như đá phiến cháy Devon của Hoa Nam.
Hệ thống cấu trúc nền - địa khiên Đông
Bắc bị các hoạt động và magma Mesozoi
làm biến dạng và biến cải thành các đới
nâng Paleozoi và các bể nội lục Mesozoi
An Châu và Sông Hiến. Các pha uốn nếp
Indosini và tạo núi Mesozoi muộn tuy có
ảnh hưởng đến các cấu trúc của Đông Bắc
nhưng yếu hơn so với Tây Bắc và Trường
Sơn.
Ảnh 15.3. Hẻm sông Đà tại Pá Vinh - Sơn La biểu thị hệ thống đứt gãy nghịch Sông Đà gây ra. Phần cánh
nâng chờm phía Bắc đứt gãy là đá vôi Anisi hệ tầng Đồng Giao (T2a đg). Phần cánh sụt là các tập phiến
vôi-sét và phiến sét-vôi Ladini hệ tầng Nậm Thẳm (T2l nt) đang bị chúc chìm và tiêu biến chậm từ từ dưới
gầm đứt gãy.
464
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
3.2. Miền cấu trúc khối lục địa Trước
Kainozoi Đông Dương (II)
Miền cấu trúc khối lục địa Đông Dương
còn được gọi là “miền cấu trúc vỏ lục địa
Đông Dương” trong chương 4. Miền cấu
trúc này tiếp giáp về phía Đông - Bắc với
miền cấu trúc Bắc Bộ qua đứt gãy khâu
Sông Mã, về phía Tây với miền cấu trúc
Sibumasu qua đứt gãy Lai Châu - Điện
Biên - Uttaradit, về phía Tây - Nam với
vịnh Thái Lan với hệ thống đứt gãy Three
- Pagoda, về phía đông với miền cấu trúc
bị chôn vùi dưới biển Đông qua đứt gãy á
kinh tuyến 1090. Đây là miền cấu trúc khá
rộng lớn chiếm toàn bộ diện Trung và Nam
Đông Dương như đới Trường Sơn, địa khối
cổ Kon Tum và diện khá lớn của nền Sunda
(Sundaland). Đây là ba hệ thống có các đơn
vị thành hệ - cấu trúc Trước Kainozoi khác
biệt nhau, nhưng đều chịu tác động chung
của chuyển động nâng - sụt dạng khối tảng
Indosini. Vì vậy, cấu trúc dạng khối là
đặc trưng tiêu biểu của miền cấu trúc này;
song, sự phân dị giữa các đới trong miền
này được phân biệt rõ qua các đặc trưng về
thành hệ - cấu trúc của chúng (Hình 15.2
và 15.3).
a. Đới cấu trúc dạng khối Indosini
Trường Sơn (IIa)
Đới này phân bố giữa các hệ thống đứt
gãy sâu Sông Mã và Tam Kỳ. Phía Bắc và
Đông Bắc tiếp giáp với hệ thống cấu trúc
Bắc Bộ dọc theo đứt gãy Sông Mã. Phía
Nam và Tây Nam giáp với địa khối cổ Kon
Tum qua đứt gãy Tam Kỳ. Phía Tây tiếp
giáp với hệ thống cấu trúc á kinh tuyến
Shan Thái có ranh giới là đứt gãy Uttaradit.
Phía Đông bị chôn vùi dưới các bể Kainozoi
thuộc rìa Tây Biển Đông. Cấu trúc đặc
trưng của đới này là các khối uốn nếp kiểu
địa khiên Paleozoi dưới - giữa tương đối
gần đẳng thước phân bố rộng rãi; còn lớp
phủ nền Tethys nông phân bố hạn chế do
ảnh hưởng của các hoạt động Hercyni. Các
hoạt động kiến tạo Hercyni và Indosini đã
ảnh hưởng rõ liên quan với sự hình thành
các đới dạng khối nâng và sụt xen kẽ nhau.
Phần nâng do Hercyni gồm có đới Paleozoi
Sông Cả, khối nâng Proterozoi - Paleozoi
Phu Hoạt, đới nâng Paleozoi Bình - Trị -
Thiên. Phần sụt chủ yếu là các bể Mesozoi
Sầm Nưa - Hoành Sơn. Toàn bộ các khối
cấu trúc nâng và sụt này đều được tiếp tục
nâng cao thành dãy các khối nâng Trường
Sơn do pha tạo núi Indosini. Các cấu trúc
lõm hậu - Indosini rất hạn chế gồm bể Nông
Sơn, bể hồ biển sót Khorat - Savanakhet
phân bố dọc theo Đông và Tây dãy Trường
Sơn và có thể phân thành hai phụ đới Đông
và Tây TrườngSơn (IIa):
Phụ đới Đông Trường Sơn là phần
cấu trúc dạng khối nâng trồi chiếm ưu
thế. Không chỉ các khối nâng Proterozoi -
Cambri Phu Hoạt, khối nâng Paleozoi Sông
Cả và các khối Paleozoi Bình - Trị - Thiên
mà cả các khối sụt như bể Trias Sầm Nưa
- Hoành Sơn và bể Trias - Jura Nông Sơn
đều được nâng cao thành dãy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_15_6082.pdf