Các bể Đệ Tam ở Việt Nam bao gồm các bể trầm tích và trầm tích núi lửa hình thành trên móng đa nguồn của các miền cấu trúc Việt - Trung và Đông Dương cố kết vào Paleozoi, Mesozoi phân bố rộng rãi ở đất liền và ngoài biển.
Vào giai đoạn Jura muộn - Creta, lãnh thổ Đông Dương chịu sự tác động của rìa lục địa tích cực Đông Á hình thành cung núi lửa - pluton chiếm phần lớn diện tích Nam Việt Nam, ĐB Bắc Bộ, vịnh Bắc Bộ qua ĐN Trung Quốc (Hamilton W., 1979; Gatinski Iu. G., 1986), cũng như quá trình triệt tiêu Meso - Neotethys vào rìa TN Đông Dương - Sundaland (Hutchinson C.S., 1994; Metcalfe I., 1998; Barber A.J., 2000).
Vào đầu Paleogen, chế độ kiến tạo ở khu vực này chuyển sang trạng thái bình ổn hơn, quá trình bóc mòn, san bằng địa hình, bình nguyên hoá chế ngự trên phạm vi Đông Dương rộng lớn. Tiếp sau là quá trình va chạm của các mảng Ấn Độ - châu Á trong khoảng 50 tr.n. trước đây gây ra sự thúc
trồi (extrusion), trượt bằng trái kèm theo căng giãn (extension), xoay ở Đông Dương (Tapponnier P. và nnk, 1986; Pakham G., 1996), tách giãn Biển Đông (Taylor B., Hayes D., 1983; Briais A. và nnk, 1993) với sự hút chìm của mảng Úc vào châu Á (Hall R., 2002) đã tác động trực tiếp vào quá trình hình thành và phát triển các bể Đệ Tam ở các khu vực này.
30 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Các bể
trầm tích
Kainozoi
Việt Nam
5
107
Chương 5. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
Các bể Đệ Tam ở Việt Nam bao gồm
các bể trầm tích và trầm tích núi lửa hình
thành trên móng đa nguồn của các miền
cấu trúc Việt - Trung và Đông Dương cố
kết vào Paleozoi, Mesozoi phân bố rộng rãi
ở đất liền và ngoài biển.
Vào giai đoạn Jura muộn - Creta, lãnh
thổ Đông Dương chịu sự tác động của rìa
lục địa tích cực Đông Á hình thành cung
núi lửa - pluton chiếm phần lớn diện tích
Nam Việt Nam, ĐB Bắc Bộ, vịnh Bắc Bộ
qua ĐN Trung Quốc (Hamilton W., 1979;
Gatinski Iu. G., 1986), cũng như quá trình
triệt tiêu Meso - Neotethys vào rìa TN
Đông Dương - Sundaland (Hutchinson C.S.,
1994; Metcalfe I., 1998; Barber A.J., 2000).
Vào đầu Paleogen, chế độ kiến tạo ở khu
vực này chuyển sang trạng thái bình ổn hơn,
quá trình bóc mòn, san bằng địa hình, bình
nguyên hoá chế ngự trên phạm vi Đông
Dương rộng lớn. Tiếp sau là quá trình va
chạm của các mảng Ấn Độ - châu Á trong
khoảng 50 tr.n. trước đây gây ra sự thúc
trồi (extrusion), trượt bằng trái kèm theo
căng giãn (extension), xoay ở Đông Dương
(Tapponnier P. và nnk, 1986; Pakham G.,
1996), tách giãn Biển Đông (Taylor B.,
Hayes D., 1983; Briais A. và nnk, 1993)
với sự hút chìm của mảng Úc vào châu Á
(Hall R., 2002) đã tác động trực tiếp vào
quá trình hình thành và phát triển các bể
Đệ Tam ở các khu vực này.
Các bể Đệ Tam ở Việt Nam thành tạo
chủ yếu trong các trũng giữa núi, sông hồ
dọc theo các đới đứt gãy có phương TB-ĐN
và các vùng ven biển có nhiều kiểu cấu
trúc - kiến tạo, địa hào, rift có kích thước,
tuổi, độ cao rất khác nhau và cả basalt lũ
phát triển rộng rãi trên các cao nguyên
Nam Việt Nam cũng như một số nơi hạn
chế ở Trung Bộ và Tây Bắc Bộ. Thành
phần chính của chúng là các trầm tích lục
nguyên vụn thô, bột kết, sét kết nhiều nơi
chứa các vỉa than lignit và một số nơi chứa
đá phiến dầu, diatomit, kaolin, bentonit.
Trên lớp phủ basalt thường có bauxit laterit
phổ biến ở cao nguyên Nam Việt Nam
(Đovjikov A.E. , 1965, Nguyễn Xuân Bao
1994).
Các bể trầm tích Đệ Tam nối liền với
nhau thành một dải từ Bắc xuống Nam và
chiếm phần thềm lục địa, vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam và một phần biển
sâu trên Biển Đông, và hai vịnh lớn trên
cùng biển là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái
Lan. Ngoài ra theo tài liệu hiện có, hàng
chục trũng Đệ Tam được ghi nhận ở phần
đất liền Việt Nam trong đó một số trũng
ở các châu thổ hoặc ven biển còn nối liền
ra các bể Sông Hồng (Miền võng Hà Nội
1. Mở đầu
108
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
ở đồng bằng Sông Hồng, trũng Cửu Long
ở đồng bằng sông Cửu Long). Sự phân bố
các trũng Đệ Tam trên đất liền có thể chia
ra các miền Đông Bắc Bộ, dải trung tâm
lưu vực sông Hồng, Tây Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ, Trung - Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Ranh giới các bể Đệ Tam ở Việt Nam
(hình 5.1) được vạch trên cơ sở phân bố
thực tế các đá trầm tích và núi lửa hiện
tại lộ ra trên mặt hoặc bị phủ nhưng được
chứng minh qua các công trình khoan sâu
hoặc khai đào nông. Nguyên tắc phân tích
bể và luận giải các bối cảnh kiến tạo hình
thành bể được dựa theo quan điểm kiến tạo
mảng (Dickinson W.R., 1976; Mail A.D.,
1990; Busby C.J. & Ingersoll R.V., 1995
v.v...). Trên thực tế, các trũng Đệ Tam ở
Việt Nam - phần đất liền đều là các trũng
nội lục trên các craton hoặc trên các miền
tạo núi sau va chạm, còn các bể ngoài khơi,
ngoài các bể nội mảng còn có bể được phát
triển trên rìa thụ động mà cơ chế thành
tạo chủ yếu liên quan với các đới cắt trượt
bằng tạo ra các địa hào, rift căng giãn, các
bể kéo toác.
Hầu hết các bể trầm tích nói trên đều có
một lịch sử phát triển địa chất tương tự với
các bể khác ở Đông Nam Á, từ Eocen đến
ngày nay. Xu hướng tách giãn chiếm ưu thế
trong Paleogen cho đến Oligocen hoặc có
nơi đến Miocen sớm với mặt cắt địa tầng
gồm những tập lớn (megasequence) bắt
đầu bằng trầm tích lục địa, chuyển dần
sang ven bờ (paralic), rồi đến các trầm tích
biển nông có thềm carbonat, cho đến sét
kết (mudstone) biển sâu. Các đồng bằng
ven biển lớn, các vịnh giữa các phụ lưu
(interdistributary bay) và các hệ triều (tidal
system) phát triển trong giai đoạn này. Từ
cuối Miocen giữa - đến muộn, các bể Đông
Nam Á trải qua một sự nén ép nhẹ đến rõ
nét và ở nhiều nơi dẫn đến một sự nghịch
đảo (inversion) ở các trung tâm lắng đọng
(depocenter). Phun trào basalt phát triển
rầm rộ ở Nam Việt Nam từ đầu Miocen
giữa đến Holocen. Tuy nhiên mỗi bể trầm
tích đều có một lịch sử phát triển địa chất
riêng biệt của mình, do đó tất cả các bể rất
khác nhau, tùy thuộc vào vị trí địa lý và các
yếu tố kiến tạo (tectonic factors).
Trong chương này chỉ phân tích, đặc
điểm của một số bể trầm tích Đệ Tam lớn
ở thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam với cố gắng làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa các loại bể và các kiểu cấu
trúc cho đến các yếu tố địa động lực tác
động đến sự phát triển tiến hóa của bể.
Các trũng Đệ Tam ở đất liền do còn ít
được nghiên cứu nên chỉ được đề cập khái
quát về các đặc điểm địa chất của chúng.
Từ Bắc xuống Nam, thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam có
thể được phân chia thành bốn khu vực và
có các bể sau.
Thềm lục địa Bắc Bộ (vịnh Bắc Bộ) có
hành lang rộng và thoải. Đới bờ phá hủy
ở phía Bắc Đồ Sơn, nơi đó các trầm tích
Kainozoi thường mỏng hoặc vắng mặt. Phần
phía Nam Đồ Sơn là thềm cấu trúc. Ở đó bể
Sông Hồng, bao gồm cả miền võng Hà Nội
ở phần đất liền, có móng trước Kainozoi bị
phủ bởi các trầm tích Kainozoi dày (5.000 -
18.000m) ngay cả trong phần đất liền cũng
có nơi trầm tích dày tới 7.000m (trũng Đông
Quan, Phượng Ngãi), đặc biệt là trầm tích
Pliocen - Đệ Tứ rất dày ở khu vực trung tâm
vịnh Bắc Bộ. Trên phầm thềm này có hàng
loạt các bể trầm tích như: Phía Bắc - Đông
109
Chương 5. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
Hình 5.1. Các bể trầm tích Đệ Tam ở Việt Nam (phỏng theo Phan Trung Điền, Trần Văn Trị).
Số hiệu các trũng trầm tích trên đất liền theo bảng 5.1.
110
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Bắc bể Sông Hồng là bể Tây Lôi Châu
(Beibu Wan), còn về phía Đông Nam, phía
Nam đảo Hải Nam là bể Nam Hải Nam, bể
này có phương gần vuông góc với bể Sông
Hồng và giữa chúng không có ranh giới rõ
ràng, tạo nên miền cấu trúc hình chữ “Y”.
Bể Hoàng Sa là bể nằm ở vùng nước sâu
quanh quần đảo Hoàng Sa và có phương
cấu trúc vuông góc với địa lũy Tri Tôn (hay
còn gọi là đới nâng Tri Tôn).
Thềm lục địa Trung Bộ có hành lang
hẹp và dốc do sự khống chế của hệ thống
đứt gãy á kinh tuyến. Đới bờ chịu tác động
ưu thế của quá trình hủy hoại, vì vậy thường
lộ ra các thành tạo trước Kainozoi. Các trầm
tích Kainozoi có chiều dày mỏng ở sát đất
liền và tăng nhanh về phía biển, đặc biệt
lớp phủ Pliocen - Đệ Tứ. Bể Phú Khánh
chiếm phần lớn thềm Trung Bộ đến đới cắt
trượt Tuy Hòa (Tuy Hoa Shear zone), rìa
ngoài của bể phát triển ra cả phần sâu dưới
chân sườn lục địa.
Phần thềm lục địa Đông Nam Bộ có
hành lang rất rộng và thoải. Các trầm tích
Kainozoi phân bố rộng với các bể trầm tích
có diện tích rộng và trầm tích dày như bể
Cửu Long, Nam Côn Sơn, Tư Chính - Vũng
Mây. Nằm xa hơn, trong vùng quần đảo
Trường Sa, nhóm bể nước sâu Trường Sa
có chiều dày trầm tích mỏng hơn tạo hàng
loạt trũng nhỏ hẹp xen giữa các đảo của
quần đảo này.
Phần thềm lục địa Tây Nam Bộ có
hành lang rộng và thoải, một số nơi từ Hòn
Đông Bắc Bộ
1. Cao Bằng 2. Thất Khê 3. Lạng Sơn
4. Nà Dương 5. Đông Triều 6. Hoành Bồ
Dải trung tâm lưu vực Sông Hồng
7. Tuyên Quang 8. TN Tam Đảo 9. Bản Cam
10. Bảo Yên 11. Đông Quán 12. Lục Yên
13. Phan Lương 14. Tân Quang 15. Lào Cai
16. Bảo Hà 17. Yên Bái 18. Phú Thọ
19. Trung Hà 20. Hà Nội
Tây Bắc Bộ
21. Lũng Pô 22. Nghĩa Lộ 23. Pu Tra
24. Sài Lương 25. Đồng Giao 26. Nậm Bay
27. Nậm Chùa 28. Điện Biên 29. Sốp Cọp
30. Hang Mon 31. Thanh Hoá
Bắc Trung Bộ
32. Nghĩa Đàn 33. Đơn phục 34. Việt Thái
35. Cửa Rào 36. Khe Bố 37. Chợ Trúc
38. Hương Khê 39. Thạch Hà 40. Ba Đồn
41. Đồng Hới 42. Gio Việt
Trung- Nam Trung Bộ
43. Ái Nghĩa 44. Ba Làng An 45. Quảng Ngãi
46. An Sơn 47. Vân Hoà 48. Sông Ba
49. Ngọc Yêu 50. Nhóm Gia Lai-Kon Tum 51. Măng Đen
52. Nhóm Kon Hà Nừng 53. Nhóm Buôn Ma Thuột 54. Nhóm Đak Nông
55. Nhóm Bảo Lộc 56. Nhóm Di Linh 57. Phan Rí
58. Phan Thiết
Nam Bộ
59. Đông Nam Bộ 60. Cần Thơ 61. Tây Nam Bộ
Bảng 5.1. Số hiệu các trũng trầm tích Đệ Tam trên đất liền Việt Nam
111
Chương 5. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
Chuông đến Hà Tiên chịu tác động ưu thế
của quá trình hủy hoại nên các thành tạo
Paleozoi và Mesozoi thường được lộ rõ, các
trầm tích Pliocen - Đệ Tứ đới ven bờ không
dày. Phần thềm lục địa Việt Nam thuộc
cánh Đông - Đông Bắc của bể Malay - Thổ
Chu.
Tất cả các bể của Việt Nam kể trên đều
nằm trên các miền vỏ lục địa, vỏ chuyển
tiếp và các miền cấu trúc vỏ lục địa sót do
quá trình đại dương hoá Biển Đông như
minh họa trong hình 5.2.
2. Mô hình về cơ chế tạo bể trầm tích
Đệ Tam ở Việt Nam
2.1. Các yếu tố địa động lực
Trong khu vực Đông Nam Á có ba yếu
tố địa động lực chính như đã trình bày trong
chương 4 liên quan đến cơ chế tạo bể trầm
tích là:
• Sự hút chìm của mảng phát triển từ Miến
Điện qua vòng cung đảo Indonesia,
• Sự va chạm của mảng Ấn Độ vào mảng
Âu - Á,
• Sự hình thành và giãn đáy Biển Đông.
Dọc cung đảo Indonesia, các bể trầm
tích được hình thành chủ yếu theo cơ chế
sau cung (back-arc), do sự thay đổi tốc độ
hút chìm theo thời gian (roll-back velocity).
So với các bể khác ở Đông Nam Á, các bể
sau cung này hình thành tương đối sớm, chủ
yếu trong Eocen, trước cả sự va chạm giữa
mảng Ấn Độ và mảng Âu - Á, có tác dụng
mạnh gây xô dịch các vi mảng.
Sự va chạm của mảng Ấn Độ vào mảng
Âu - Á xảy ra đồng thời với sự xoay và
dịch chuyển lên phía Bắc của vòng cung
Philippin tạo không gian cho các chuyển
Hình 5.2. Các kiểu vỏ thạch quyển khu vực Đông Nam Á (theo Metcalfe)
112
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
động thúc trồi của các địa khối dọc theo
các đứt gãy lớn trong khu vực do sự chèn
ép của mảng Ấn Độ. Do đó các địa khối
có xu thế trượt từ Tây Tạng về phía Nam
và Đông Nam. Nằm trong khung cảnh đó,
miền cấu trúc vỏ lục địa Đông Dương cũng
được cho là đã bị thúc trồi mạnh từ phía
Tây Bắc xuống Đông Nam, dọc theo hệ
thống đứt gãy Sông Hồng, Three Pagodas
và Maeping.
Do mảng Ấn Độ húc vào mảng Âu - Á
với xu thế ngày càng tiến về hướng bắc từ
Eocen đến nay, nên các chuyển động thúc
trồi của các địa khối này cũng có sự thay
đổi hướng theo thời gian. Các địa khối nằm
ở phía Nam đứt gãy Three Pagodas bị thúc
trồi sớm hơn (Eocen, đầu Oligocen) và bị
đẩy về phía Nam, tạo ra các bể trầm tích
có phương đứt gãy B - N (như trũng Pattani
ở vịnh Thái Lan). Tiếp theo là các địa khối
nằm giữa hệ thống đứt gãy Three Pagodas
và Sông Hồng bị thúc trồi trong Oligocen
đến Miocen sớm. Phần phía Bắc bị đẩy
sớm hơn vào đầu hoặc giữa Oligocen, phần
phía Nam bị đẩy muộn hơn và kết thúc vào
cuối Miocen sớm. Khoảng cách bị đẩy thúc
trồi của phần phía Nam có lẽ mạnh hơn, xa
hơn so với phần phía Bắc, tạo ra hình chữ S
của bờ biển Việt Nam hiện nay (Hình 5.3).
Điều này cũng lý giải giai đoạn syn-rift ở
phía Nam bể Sông Hồng chỉ kết thúc vào
cuối Miocen sớm.
Sự hình thành và giãn đáy Biển Đông là
yếu tố địa động lực quan trọng có tác động
mở rộng diện tích bể và tái hoạt động làm
phức tạp hoá bức tranh kiến tạo trong phạm
vi ảnh hưởng.
Trước khi giãn đáy rõ ràng phải là một
giai đoạn căng giãn, có lẽ là giai đoạn va
mảng vào Eocen được Holloway (1982) gọi
là giai đoạn khởi đầu rift (rift-onset) hay
giập vỡ (breakup). Vì vậy, chúng tôi cho
rằng sự hình thành một số bể trầm tích ở
Việt Nam (như nhóm bể Trường Sa, Hoàng
Ảnh hưởng do thúc trồi
Hình 5.3. Mô hình yếu tố kiến tạo ảnh hưởng đến quá trình hình thành bể trầm tích (phỏng theo Metcalfe)
113
Chương 5. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
Sa) và sự giãn đáy Biển Đông có cùng
nguyên nhân địa động lực và Biển Đông là
kết quả rõ nhất của quá trình căng giãn và
giãn đáy. Giai đoạn giãn đáy Biển Đông là
giai đoạn sắp xếp lại của các vi mảng tạo
không gian căng giãn thuận lợi nhất không
chỉ cho Biển Đông, mà còn tạo không gian
căng giãn để hình thành các bể căng giãn
rìa thụ động như Hoàng Sa, Trường Sa,
Phú Khánh, vì thế ở tất cả các bể đều có
phân bố rộng rãi các trầm tích Oligocen.
Quá trình giãn đáy Biển Đông kết thúc vào
cuốùi Miocen sớm, sau đó có nơi có thể còn
phát triển pha rift Miocen giữa với sự hoạt
động mạnh mẽ của núi lửa vào khoảng thời
gian 12 triệu năm. Ngoài những yếu tố địa
động lực chính nêu trên còn những yếu tố
có thể không quan sát thấy hay khó quan
sát thấy hiện nay, nhưng có thể đã có vai
trò nhất định, trong việc tạo bể trầm tích ở
Việt Nam đó là:
• Chuyển động lên phía Bắc và xoay từ
Đông sang Tây của cung đảo Philippin,
• Chuyển động xoay của địa khối
Borneo,
• Chuyển động xoay của Biển Đông từ
Bắc xuống Nam.
Những chuyển động này nhìn chung
Hình 5.4. Mô hình quá trình hình thành bể trầm tích trong giai đoạn Paleocen-Eocen
(phỏng theo Liang Dehua, 1990)
114
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
đã được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận
qua các tài liệu cổ từ, cổ sinh và khí hậu và
đã được đề cập đến trong các công bố của
Holloway, Longley và Hall... Tất cả những
chuyển động này đã sắp xếp lại các vi
mảng trong Kainozoi, cùng với sự thúc trồi
của miền cấu trúc vỏ lục địa Đông Dương
trong sự tác động tương hỗ, kết quả là hình
thành sự căng giãn tạo các bể trầm tích.
Còn một yếu tố địa động lực ít được đề
cập và thảo luận là vai trò của lục địa Nam
Trung Hoa đến khu vực Biển Đông (Hình
5.3). Như đã được trình bày trong mục 3.3
chương 4, vào thời kỳ Creta trường ứng lực
khu vực có hướng ĐB - TN làm cho các rạn
nứt (fractures) trước đó mở rộng thành các
trũng rift căng ngang ĐB - TN trong giai
đoạn cuối Creta - Paleocen và được coi là
các trũng giữa núi của pha Yến Sơn muộn.
Vào Eocen khi mảng Ấn Độ húc vào mảng
Âu - Á lại tạo ra một pha tạo rift mới ở phía
Bắc Biển Đông giáp với lục địa Nam Trung
Hoa, giai đoạn này có thể coi là giai đoạn
rạn nứt vỏ trước giãn đáy Biển Đông.
2.2. Mô hình biến dạng tạo bể trầm tích
a. Hình dạng các bể
Hình dạng các bể trầm tích có liên quan
chặt chẽ và bị khống chế bởi các yếu tố địa
động lực trong quá trình hình thành và phát
triển của bể. Chính do các yếu tố địa động
lực riêng từng khu vực đã tạo nên các hình
dạng khác nhau của các bể trầm tích Đệ
Tam ở Việt Nam. Trên cơ sở các bản đồ
cấu trúc, hình dạng các bể được phân ra các
dạng như sau:
• Dạng hình thoi, hình bình hành gồm các:
bể Sông Hồng (phần Bắc và Trung tâm
bể) và bể Malay - Thổ Chu đặc trưng
cho kiểu kéo toác;
• Dạng địa hình phân dị với các địa hào
nhỏ, song song, xen kẹp nhau, đặc trưng
cho kiểu trượt cục bộ đó là bể Nam Côn
Sơn (phần Tây), bể Phú Khánh, nhóm
bể Hoàng Sa, Trường Sa;
• Dạng hình hạt đỗ (hoặc hình trăng
khuyết), đặc trưng cho hai pha tách bể
có hướng khác nhau điển hình là bể Cửu
Long;
• Dạng không phân định ranh giới do
nhiều nguyên nhân địa động lực chồng
lên nhau như bể Nam Côn Sơn (phần
phía Đông).
b. Mô hình biến dạng tạo bể trầm tích
(dựa theo Tapponnier)
Có hai yếu tố chính để hình thành, phát
triển một bể trầm tích, đó là cần có lực gây
căng giãn và cần có không gian để căng
giãn xảy ra. Như đã trình bày ở phần trên,
lực gây căng giãn là lực húc của mảng Ấn
Độ ở góc hội tụ Tây Tạng gây ra chuyển
động thúc trồi của miền cấu trúc vỏ lục
địa Đông Dương, còn không gian căng
giãn tập trung vào khu vực thềm lục địa và
Biển Đông ngày nay. Để có được không
gian căng giãn này cần phải có sự sắp xếp
lại các vi mảng ở Biển Đông, chính các
chuyển động xoay đã góp phần tạo ra quá
trình này, và là sự kết hợp giữa hai mô hình
động lực đã được trình bày trong chương 4:
quan điểm thúc trồi (Tapponnier) và quan
điểm mô hình động nhiều vi mảng (Rangin,
Hall).
Trường lực gây tách giãn thay đổi theo
thời gian và không liên tục, nên các chuyển
động thúc trồi của miền cấu trúc vỏ lục địa
Đông Dương cũng bị phân dị và có cường
độ khác nhau từ Nam lên Bắc, tạo tính
115
Chương 5. Các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam
nhiều pha cũng như chi phối qui mô, diện
tích tại đây của sự căng giãn, tuy nhiên qui
mô diện tích này cũng cần phải xem xét
trong khung cảnh cho phép của không gian
căng giãn.
Quan sát hình dạng phần lục địa của
miền cấu trúc vỏ lục địa Đông Dương có
đường bờ biển cong hình chữ “S”, trong đó
phần bụng nhô ra phía Biển Đông nhiều
nhất là địa khối Kon Tum cố kết rắn chắc,
đầu của chữ “S” tương ứng và liên quan đến
bể Sông Hồng, đuôi của chữ “S” tương ứng
và liên quan đến hai bể Cửu Long và Nam
Côn Sơn. Vì thế, chúng ta có thể giả thiết
rằng địa khối Kon Tum bị đẩy thúc trồi xa
nhất, phần Bắc và Nam của miền cấu trúc
này, năng lượng đẩy bị tiêu hao vào căng
giãn, tạo các bể trầm tích.
Như vậy, các bể trầm tích Đệ Tam ở
Việt Nam được hình thành dưới sự tác động
qua lại của các yếu tố địa động lực đã nêu
ở mục 1.1 của chương này (Hình 5.3) và tùy
theo vị trí mà có trọng số ảnh hưởng khác
nhau của các yếu tố này. Có bể hình thành
do một yếu tố địa động lực và chỉ có một
pha căng giãn và có bể hình thành do nhiều
yếu tố địa động lực và có nhiều pha căng
giãn chồng lên nhau (polyhistory) và các
yếu tố địa động lực xảy ra theo thời gian
như sau:
• Pha căng giãn Creta-Paleocen (ở khu
vực Nam lục địa Nam Trung Hoa);
• Va mảng Ấn Độ vào mảng Âu - Á vào
Eocen: giai đoạn đầu giập vỡ đáy bể
trầm tích;
• Chuyển động thúc trồi vào Oligocen-
Miocen: giai đoạn căng giãn, sụt lún
tạo bể trầm tích;
• Giãn đáy Biển Đông (32-17 tr.n.).
Do phần lớn các bể trầm tích Đệ Tam ở
Việt Nam có tuổi hình thành vào Oligocen
nên chịu tác động chủ yếu của hai yếu tố
địa động lực trong thời gian này là chuyển
động thúc trồi và giãn đáy Biển Đông. Hai
yếu tố này xảy ra gần như đồng thời, chúng
tương tác và hỗ trợ lẫn nhau.
3. Các kiểu bể trầm tích Đệ Tam Việt
Nam
3.1. Tổng quát về phân loại bể
Theo Bally (1975) một bể trầm tích được
định nghĩa là “những phạm vi (realm) sụt
võng (subsidence) có chiều dày trầm tích -
thông thường vượt trên 1 km, ngày nay còn
được bảo toàn và gắn liền nhau (coherent)”.
Cần phải nói thêm về khái niệm bể, theo
nghĩa rộng hơn của Bally (1975): bể trầm
tích là một diện tích của vỏ trái đất được
phủ bởi một tập trầm tích dày hơn so với
vùng xung quanh và theo cách hiểu trên thì
không có ranh giới rõ ràng, có bể có ranh
giới khép kín, có bể mở về phía các bể lớn
hơn. Vì thế khi bàn về các bể trầm tích Đệ
Tam ở Việt Nam, có những bể là bể trầm
tích thực theo cách hiểu thông thường, là
một đới trũng có ranh giới, nhưng cũng có
những diện tích được gọi là “bể” theo nghĩa
rộng, không phải là đới trũng lớn và cũng
không có ranh giới rõ ràng.
Theo chế độ địa động lực, cơ chế hình
thành các bể có thể được chia ra làm ba
loại: hình thành liên quan đến chế độ phân
ly hoặc căng giãn; liên quan đến chế độ
hội tụ hoặc nén ép; và liên quan đến các
cắt trượt. Có nhiều kiểu phân loại bể của
các tác giả khác nhau như Perrodon, 1971;
Bally, 1975; Klemme, 1975 và Dickinson,
116
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
1976, nhưng đều gắn với các kiểu vỏ lục
địa và kiểu rìa mảng. Trong ngành dầu
khí, các quan điểm chủ yếu tập trung theo
hướng nghiên cứu các quá trình tiến hóa bể
liên quan đến việc sinh thành dầu khí, nên
có hai hướng phân loại: theo hình dạng,
cấu trúc bể và theo nguồn gốc, tiến hóa bể.
Mục tiêu của các phân loại này nhằm tương
tự hóa các bể chưa thăm dò dầu khí từ các
bể đã thăm dò và khai thác dầu khí.
Trên thực tế có thể phân loại các bể
trầm tích trên cơ sở những tiêu chuẩn như
sau:
• Vị trí của các bể trên các mảng thạch
quyển (lithospheric plate). Đa số các
bể phân bố ở những đới động (active
zone) - ở ranh giới các mảng. Ngoài
ra, còn có các bể, đặc biệt các bể rộng
nhất, nằm ngay trên mảng (bể nội lục
- intracratonic basin).
• Cơ chế tạo bể (basin drive mechanism)
và đặc tính của quá trình kiến tạo
(nature of tectonic process). Sự phát
triển của các bể trầm tích bị chi phối
bởi sự chuyển động tương đối giữa các
mảng và chịu ảnh hưởng của các ranh
giới (boundary) phân ly, hội tụ hoặc
biến dạng của mảng. Một số bể trầm
tích (bể nội lục) hiện đã ở xa các giới
hạn của mảng ngày nay, nhưng chúng
có thể có liên quan đến các ranh giới
mảng cổ.
• Sự tiến hóa của bể và cấu trúc bể. Bể
đã qua ba thời kỳ tiến hóa mới sinh
(Juvenile), trưởng thành (mature) và
cuối cùng (final). Một bể có thể trải qua
một, hai hoặc tất cả các giai đoạn tiến
hóa. Xa hơn nữa, một bể có thể chỉ trải
qua một chu kỳ hoặc nhiều chu kỳ phát
triển.
Dựa vào các tiêu chuẩn nêu trên, hiện
trong địa chất dầu khí áp dụng rộng rãi
bảng phân loại (đơn giản) các kiểu bể trầm
tích sau đây:
a. Bể căng giãn (extensional basin)
Trên cơ sở đặc điểm quá trình căng
giãn và vị trí hình thành bể được chia ra
các kiểu bể căng giãn sau đây:
• Bể kiểu bồn nội lục (intracratonic sag
basin) là các trũng đơn lẻ trên bình đồ
gần như đẳng thước, hiện tượng sụt lún
không bị khống chế bởi đứt gãy, mà
do vòm nhiệt dâng lên trong vỏ trên
manti.
• Bể rift căng giãn (extensional rift basin)
được hình thành trên ranh giới phân ly,
nơi quyển mềm (asthenosphere) trồi
lên, tạo sự tách giãn của vỏ lục địa.
Kiểu này cũng có thể hình thành trong
nội mảng, có pha rift ban đầu, sau đó là
sụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_5_7744.pdf