Tơ nâng đỡthường gặp ởnhiều tếbào của cơ thểđa bào, ví dụ ởtếbào
thượng bì, ởtếbào sinh vật đơn bào.
Tơ nâng đỡcó cấu trúc sợi và thường gồm những bó sợi có kích thước siêu
hiển vixếp song song; mỗi sợi có đường kính từ60 -150Å. Mỗi bó sợi có hàng
trăm sợi siêu hiển vi.
Ởtếbào thượng bì, tơ nâng đỡxếp thẳng góc với màng tếbào và không
xuyên qua màng sang tếbào bên cạnh.
7 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Các bào quan khác (phần 4), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 9 CÁC BÀO QUAN KHÁC (Phần 4)
9.9. Tơ nâng đỡ (tonofibrin)
Tơ nâng đỡ thường gặp ở nhiều tế bào của cơ thể đa bào, ví dụ ở tế bào
thượng bì, ở tế bào sinh vật đơn bào.
Tơ nâng đỡ có cấu trúc sợi và thường gồm những bó sợi có kích thước siêu
hiển vi xếp song song; mỗi sợi có đường kính từ 60 - 150Å. Mỗi bó sợi có hàng
trăm sợi siêu hiển vi.
Ở tế bào thượng bì, tơ nâng đỡ xếp thẳng góc với màng tế bào và không
xuyên qua màng sang tế bào bên cạnh.
Tơ nâng đỡ có chức năng nâng đỡ (ví dụ ở tế bào đơn bào) hoặc có vai trò
tăng cường mối liên hệ giữa các tế bào (đối với tế bào thượng bì).
9.10. Tiên mao (flagella) và tiêm mao (cillia)
Tiên mao và tiêm mao thường nằm trên bề mặt của tế bào, đó là cơ quan vận
động của tế bào, đặc biệt là sinh vật đơn bào.
Về cấu trúc giữa tiên mao và tiêm mao không khác nhau, chúng chỉ
khác nhau về kích thước và số lượng. Khi trên bề mặt tế bào có số lượng nhiều
nhưng ngắn thì gọi là tiêm mao, khi có số lượng ít và dài thì gọi là tiên mao.
Tiêm mao có ở thảo trùng, ở tế bào sinh vật đa bào, ví dụ như ở tế bào biểu
mô có lông tơ lót ống tiêu hoá, lót ống hô hấp, ống sinh dục... Tiên mao có nhiều ở
sinh vật đơn bào, tinh trùng.
Tiên mao và tiêm mao đều được bao bởi 1 lớp màng có cấu trúc 3 lớp - chính
là do sự kéo dài của màng tế bào mà thành. Bên trong có cấu trúc sợi. Các sợi sắp
xếp theo sơ đồ được trình bày trong hình 9.10.
Sơ đồ cho thấy phía trong màng có 9 cặp vi ống nằm ngoài dày 300Å. Ở
chính giữa có 2 sợi trung tâm được bọc trong một bao trung tâm dày 150Å. Ở giữa
sợi ngoại vi và sợi trung tâm có 9 sợi thứ cấp nhỏ hơn.
Thành phần hoá học chủ yếu của tiên mao và tiêm mao là protein, ngoài ra còn có
lipid. Protein và lipid là 2 thành phần chủ yếu tạo nên sợi microfibrin và sợi
falagelin. Falagelin tương ứng với myosin của sợi cơ (ở đây không có actin). Tiên
mao và tiêm mao có thể rụng đi, mất đi và loại mới sẽ dược phát triển từ chất nền.
Thể nền có nguồn gốc từ trung tử.
9.11. Thành và vỏ tế bào
Tế bào thực vật được bao bọc bởi những thành tế bào, các thành này nằm
ngoài màng sinh chất và là tổ hợp đơn giản của gluxit. Đã từ lâu, các nhà sinh học
biết tế bào thực vật, nấm và phần lớn các vi khuẩn có thành dày và chất giàu gluxit.
Nhưng chỉ những năm gần đây người ta mới nhận thấy rằng tế bào động vật
cũng có gluxit ở mặt ngoài của chúng. Các gluxit ở tế bào động vật không tạo nên
thành của tế bào, tuy nhiên chúng hoạt động như những
nhóm phía ngoài không phụ thuộc vào một số lipid và ptotein màng. Mặc dầu
không liên hệ với nhau, các nhóm gluxit này thường được mô tả là “vỏ” tế bào và
“vỏ” này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định một số đặc tính của tế bào.
Sự có mặt của gluxit trên bề nặt ngoài của các tế bào làm xuất hiện các đặc tính
chung của chúng.
Tuy nhiên, cũng cần phân biệt: một bên là thành tế bào dễ nhận thấy, dày và
tương đối cứng của thực vật, nấm và vi khuẩn. Bên kia là lớp “vỏ” khó
thấy, mỏng và mềm của tế bào động vật.
- Thành tế bào thực vật, nấm và vi khuẩn: thành tế bào thực vật, nói chung,
không được coi là một phần của màng sinh chất, mặc dầu nó là sản phẩm của tế
bào. Thành phần cấu trúc cơ bản của thành tế bào là loại polysaccharide tổng hợp -
cellulose - có cấu trúc dạng sợi. Sợi cellulose gắn với nhau nhờ khuôn của các dẫn
xuất gluxit khác, trong đó, có pectin và hemicellulose. Khuôn này không hoàn toàn
lấp đầy các khoảng trống giữa các sợi và chúng cho phép nước, không khí, các chất
hoà tan đi qua thành tế bào một cách tự do.
Chức năng: là cơ quan vận động của tế bào. Năng lượng cần cho hoạt động của
chúng cũng là ATP. Hình 9.10. Cấu trúc hiển vi của lông bơi và sơ đồ cắt
ngang ở 3 vùng (ngọn roi, gần gốc roi và trong gốc roi) (theo Pechenik)
Phần đầu tiên của thành tế bào do tế bào trẻ đang phát triển tạo ra gọi là thành
sơ cấp. Nơi thành của 2 tế bào chạm nhau, lớp giữa chúng được gọi là tấm trung
gian sẽ gắn chúng với nhau. Pectin một polysaccharide tổng hợp trong dạng
pectatecanxi là cấu trúc cơ bản của tấm trung gian. Nếu pectin bị hoà tan, tế bào sẽ
kém liên kết chặt chẽ với nhau. Ví dụ: khi quả chín, pectatecanxi chuyển hoá một
phần thành dạng khác dễ hoà tan hơn, các tế bào trở nên mềm hơn.
Tế bào của các mô mềm ở thực vật chỉ có thành sơ cấp và tấm trung gian giữa
các tế bào. Sau khi ngừng phát triển, các tế bào tạo phần gỗ cứng hơn và các lớp
tiếp tục phát triển để hình thành nên thành thứ cấp.
Thành thứ cấp thường dày hơn thành sơ cấp và được cấu tạo từ các lớp rất
chặt hoặc tấm. Sợi cellulose của mỗi sợi tấm nằm song song với nhau và có góc 60
- 90
0
với sợi của tấm bên cạnh. Ngoài cellulose, thành thứ cấp còn chứa các chất
khác như lignin làm cho chúng chắc hơn.
Trên thành tế bào có những cầu nối, qua đó, các tế bào cạnh nhau liên hệ với
nhau gọi là, cầu sinh chất (plasmadesmata). Có 2 dạng:
+ Dạng thứ nhất là các đường ống qua màng, qua đó nguyên sinh chất của
từng tế bào riêng biệt trong một cơ thể thực vật đa bào liên kết và trao đổi với
nguyên sinh chất của tế bào khác. Các nguyên sinh chất liên kết với nhau thành
một hệ thống gọi là hợp bào (symplaste). Phần lớn sự trao đổi chất giữa các tế bào
như trao đổi đường và acid amino thường xảy ra qua cầu sinh chất của hợp bào.
+ Dạng thứ 2 gọi là lõm, đó là vật cản có tính thấm chọn lọc do thành sơ cấp
tạo nên.
Thành tế bào của nấm và các vi khuẩn được cấu tạo từ chitin (thực vật từ
cellulose) là dẫn xuất của amino glucosamine. Ở vi khuẩn, thành tế bào có chứa vài
dạng cơ chất hữu cơ thay đổi theo từng nhóm. Phản ứng đặc biệt của các cơ chất
hữu cơ này đối với các chất nhuộm màu là dấu hiệu để phân loại vi khuẩn trong
phòng thí nghiệm.
Nhờ có thành tế bào mà tế bào thực vật, nấm và vi khuẩn không bị vỡ ở môi
trường ngoài rất loãng (nhược trương). Ở môi trường này tế bào phồng lên do áp
lực trương và sẽ ép vào thành tế bào. Áp lực trương trên thực tế còn làm cho cấu
trúc cơ học của cây xanh mạnh hơn (hình 9.11).
1. Vách th
- Glucocalix: ở tế bào động vật, gluxit (chính là olygosaccharide) đã gắn vào
protein hoặc lipid ở mặt ngoài tế bào tạo thành glycoprotein và glucolipid. Sự liên
kết giữa oligosaccharide với protein và lipid ở mặt ngoài tế bào động vật như vậy
được gọi là glycocalix (hình 9.12).
Theo những nghiên cứu mới nhất thì glycocalix chính là điểm nhận biết trên
bề mặt tế bào, tạo cho nó khả năng tương tác với các tế bào khác. Ví dụ: khi trộn tế
bào gan và thận riêng rẽ trong môi trường nuôi cấy, các tế bào gan sẽ nhận biết
nhau và sẽ tái kết hợp, các tế bào thận cũng sẽ tách ra và tái kết hợp.
Sự nhận biết của các tế bào trong quá trình phát triển phôi và cả sự kiểm soát
quá trình phát triển của tế bào cũng phụ thuộc vào glycocalyse.
Ngày nay, người ta còn cho rằng sự nhận biết của tế bào vật chủ ở vi rút có lẽ cũng
phụ thuộc vào glucocalix. Và glucocalix của tế bào ngoại lai chính là dấu hiệu để
phần tử kháng thể của hệ miễn dịch dùng để nhận biết vật gây bệnh. 1234Hình
9.11. Vách tế bào (theo Phạm Thành Hổ)
Glucocalyse được tạo nên từ oligosaccharit ở phía ngoài của gluco, lipid và
glucoprotein và của adsobedglycoprotein và proteoglycans.
9.12. Trung thể (centrosome)
9.12.1. Cấu tạo
Trung thể còn gọi là trung tâm tế bào (cytocentrom), là bào quan có trong tất
cả tế bào động vật đa bào, đơn bào và trong tế bào một số thực vật (tảo, nấm, rêu,
dương xỉ và một số hạt trần). Trong tế bào của thực vật hạt kín, người ta chưa quan
sát thấy trung thể, tuy rằng, có một số tác giả có mô tả các cấu trúc tương tự.
Trung thể tồn tại trong tế bào chất ngay cả trong thời gian tế bào không phân
chia, và xuất hiện rõ khi phân chia nguyên nhiễm (mitose).
Trong tế bào không phân chia thì trung thể có trong tế bào chất, nằm cạnh
nhân và ở giữa có 2 hạt bắt màu sáng nằm vuông góc với nhau gọi là trung tử
(9.13).
Trung tử (centriole) có kích thước từ 0,2 - 0,3μm. Dưới kính hiển vi điện tử,
trung tử xuất hiện như cái ống trụ tròn, dài 0,3 - 0,6μm và đường kính 1000 -
2000Å. Thành ống được cấu tạo bởi 9 nhóm ống nhỏ, mỗi nhóm có 3 ống nhỏ.
Trong 3 ống có 1 ống hoàn chỉnh (A) dính với 2 ống không hoàn chỉnh (B,C) (hình
9.14 và 9.15). 1 2 3 4 7
Trung tử đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân bào. Trong quá trình phân
bào, trung tử phân chia và di chuyển về 2 cực đối lập của tế bào và hoạt động như
tâm điểm cho thoi vô sắc và hình thành nhân của tế bào con. Tuy nhiên, những tế
bào không có trung tử thoi vô sắc cũng được hình thành.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_9_cac_bao_quan_kha1_9254.pdf