Bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Trong bài viết này, tác giả trình bày về thực trạng năng lực nghiệp vụ sư phạm của

đội ngũ giảng viên trường CĐSP Bà Rịa - Vũng Tàu và đưa ra 9 biện pháp: Mở lớp

bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên; nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học

cho giảng viên; khuyến khích, động viên giảng viên tích cực tham gia hội nghị, hội

thảo khoa học trong và ngoài trường; tổ chức hội giảng cấp tổ, khoa và tổ chức cuộc

thi giáo viên dạy giỏi cấp trường; giảng viên tham gia tập huấn các chuyên đề có liên

quan do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức; cho giảng viên tự giác đăng ký nhiệm vụ

hoạt động nghiên cứu khoa học trong năm học; đổi mới hình thức và nội dung sinh

hoạt tổ chuyên môn; yêu cầu giảng viên đi tìm hiểu thực tế giáo dục phổ thông; tạo

môi trường làm việc thoải mái về tinh thần, đầy đủ điều kiện làm việc cho giảng viên.

Trong những năm học vừa qua nhà trường đã triển khai các biện pháp trên và đạt hiệu

quả tốt.

pdf8 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 13/05/2022 | Lượt xem: 468 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu hội thảo khoa học272 BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM BÀ RỊA-VŨNG TÀU ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC TS. Nguyễn Chí Tăng, TS. Hồ Cảnh Hạnh Trường CĐSP Bà Rịa-Vũng Tàu Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả trình bày về thực trạng năng lực nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giảng viên trường CĐSP Bà Rịa - Vũng Tàu và đưa ra 9 biện pháp: Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên; nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học cho giảng viên; khuyến khích, động viên giảng viên tích cực tham gia hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài trường; tổ chức hội giảng cấp tổ, khoa và tổ chức cuộc thi giáo viên dạy giỏi cấp trường; giảng viên tham gia tập huấn các chuyên đề có liên quan do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức; cho giảng viên tự giác đăng ký nhiệm vụ hoạt động nghiên cứu khoa học trong năm học; đổi mới hình thức và nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn; yêu cầu giảng viên đi tìm hiểu thực tế giáo dục phổ thông; tạo môi trường làm việc thoải mái về tinh thần, đầy đủ điều kiện làm việc cho giảng viên. Trong những năm học vừa qua nhà trường đã triển khai các biện pháp trên và đạt hiệu quả tốt. Từ khóa: Nghiệp vụ sư phạm của giảng viên; năng lực nghề nghiệp của giảng viên 1. Đặt vấn đề Mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả, Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [1, tr3]. Để đạt được mục tiêu, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng đã chỉ ra 9 nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có nhiệm vụ, giải pháp (thứ 6) về “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý”[1, tr7]. Trường sư phạm với vai trò là “máy cái” trong đào tạo giáo viên, cần được tập trung đầu tư xây dựng để nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên. Một trong những Kỷ yếu hội thảo khoa học 273 nội dung đầu tư xây dựng trường sư phạm phải kể đến đầu tư xây dựng đội ngũ giảng viên (GV). Đội ngũ GV phải thật sự chất lượng, thể hiện ở trình độ chuyên môn cao và năng lực nghiệp vụ sư phạm (NVSP) vững vàng. Vì vậy, vấn đề nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ GV là rất cần thiết. Đội ngũ GV có trình độ chuyên môn cao và năng lực nghiệp vụ sư phạm vững vàng sẽ quyết định đến chất lượng đào tạo của nhà trường sư phạm. Năng lực nghiệp vụ sư phạm của GV sẽ ảnh hưởng, tác động đến sự hình thành và phát triển năng lực nghề nghiệp đặc biệt là năng lực sư phạm của sinh viên (SV) - người giáo viên tương lai. Trong bài viết này chúng tôi trình bày thực trạng năng lực sư phạm của GV và một số biện pháp bồi dưỡng năng lực NVSP thường xuyên cho GV trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu. 2. Thực trạng năng lực nghiệp vụ sư phạm đội ngũ giảng viên trường CĐSP Bà Rịa - Vũng Tàu Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là một trong những mục tiêu hàng đầu mà nhà trường hướng tới. Vì vậy, nhà trường đã đầu tư cơ sở vật chất như xây mới và cải tạo phòng học, lắp đặt các phương tiện, trang thiết bị dạy học hiện đại; trang bị phòng thí nghiệm vật lý và hóa sinh với vốn đầu tư hàng tỷ đồng; cải tạo sân tập, nhà thi đấu đa năng nhằm tạo điều kiện cho GV đổi mới PPDH. Tại thời điểm này, có thể nói nhà trường đã có hệ thống cơ sở vật chất rất tốt, giúp GV có điều kiện đổi mới PPDH; 100% GV của trường đã thực sự đổi mới được PPDH đáp ứng được yêu cầu phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học cho SV. Các phương pháp mà GV sử dụng như: dạy học nêu vấn đề Ơrictic; tương tác sư phạm; hoạt động nhóm; dạy học dự án,; đặc biệt các GV ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học một cách khá thành thạo. Từ năm học 2010- 2011, nhà trường đào tạo theo học chế tín chỉ, do đó tư vấn học tập cho SV là một việc làm không thể thiếu được, chính hình thức đào tạo này đã giúp cho khả năng tư vấn học tập của GV được rèn luyện thường xuyên. GV nói chung và đặc biệt đội ngũ cố vấn học tập của nhà trường nói riêng có khả năng tư vấn học tập tốt. Hiện nay đội ngũ GV cơ hữu gồm 83 người; trình độ sau đại học 71 người (chiếm 86%), trong đó có 13 tiến sĩ (chiếm 15,7%), 6 nghiên cứu sinh (chiếm 7,2%); giảng viên chính 16 người (chiếm 19,3%). Đây là cơ sở để chứng minh khả năng hoạt động chuyên môn và nghiên cứu khoa học của đội ngũ GV trong trường. Trong năm học 2018-2019 nhà trường đã nghiệm thu sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ của GV nhà trường gồm: 1 sách chuyên khảo; 02 tài liệu giảng dạy; 16 sáng kiến kinh nghiệm (06 sáng kiến kinh nghiệm đạt cấp tỉnh); 102 bài viết gửi các báo, tạp chí khoa học, hội thảo khoa học, bản tin khoa học. Cụ thể có 15/102 bài báo và báo cáo khoa học đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài và hội thảo khoa học nước ngoài; 32/102 bài viết được đăng tải trên các tạp chí khoa học trong nước có chỉ số ISSN; 18/102 bài đăng trong kỷ yếu hội thảo quốc tế, quốc gia, cấp bộ và trường đại học xuất bản thành sách có chỉ số ISBN; 19/102 kỷ yếu hội thảo không có xuất bản thành sách; 17/102 bài báo khoa học đăng trong bản tin khoa học của trường. Là một trường Cao đẳng Kỷ yếu hội thảo khoa học274 nên khả năng nghiên cứu khoa học của SV còn hạn chế, số đề tài đăng ký thực hiện hàng năm rất ít (năm học 2018-2019 có 1 khóa khóa luận tốt nghiệp của sinh viên được đánh giá xuất sắc) do đó khả năng hướng dẫn SV nghiên cứu khoa học của GV chưa được bộc lộ [5]. Hầu hết GV có kỹ năng tổ chức hoạt động ngoại khóa và các hoạt động giáo dục cho SV đối với môn học do mình phụ trách. Các GV kiêm nhiệm hoạt động Đoàn, Hội, quản lý SV kỹ năng này rất tốt. GV tham gia hội giảng phải dự thi hai phần: thi lý thuyết về hiểu biết sư phạm và thi thực hành qua giờ dạy trên lớp. Vì vậy, kết quả đánh giá giờ hội giảng phần nào đánh giá được năng lực dạy học của GV. Trong năm học 2018-2019, công tác hội giảng được triển khai ở 3 cấp: Cấp tổ có 48 tiết, kết quả có 48 tiết đạt giỏi; cấp khoa 15 tiết, kết quả 15 tiết đạt giỏi; cấp trường có 10 giảng viên tham gia (dạy 15 tiết), kết quả có 15 tiết giỏi, 10 giảng viên đạt danh hiệu GV dạy giỏi cấp trường, 5 giảng viên được xếp loại cuộc thi GV dạy giỏi cấp trường (1 giải A, 2 giải B và 2 giải C). Như vậy, có 48/83 GV tham gia hội giảng, đạt 57,8%, chỉ tiêu đề ra là 50% [6]. Nhà trường trong những năm học qua đã sử dụng bộ tiêu chí sau đây để khảo sát SV đánh giá hoạt động giảng dạy của GV. Ghi chú: (A: Rất đúng = 4 điểm; B: Đúng = 3 điểm; C: Đúng một phần = 2 điểm; D: Không đúng = 1 điểm). STT Các tiêu chí đánh giá A B C D 1 Lượng thông tin, kiến thức GV cung cấp đáp ứng tốt mục tiêu học phần. 2 GV đã đào sâu, mở rộng và cập nhật kiến thức của HP kịp thời, hiệu quả cao. 3 GV tích cực đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học rất phù hợp đặc trưng HP; biết sử dụng tốt máy vi tính vào dạy học. 4 Mối tương tác giữa người dạy – người học, người học – người học tạo sự hợp tác trong dạy học. 5 GV đã giao nhiệm vụ để HS – SV giải quyết khi học ở nhà thông qua học cá nhân hoặc làm việc nhóm. 6 GV luôn quan tâm đến việc hướng dẫn HS – SV phương pháp tự học, tự nghiên cứu và phát huy tư duy phản biện trong học tập. 7 Giáo trình, đề cương chi tiết, tài liệu tham khảo được GV giới thiệu đầy đủ cho HS – SV ngay từ tiết lên lớp đầu tiên của HP. 8 GV luôn đảm bảo thời gian lên lớp theo quy định (không ra sớm, không vào trễ, thực hiện theo đúng thời khóa biểu), làm việc có tinh thần và trách nhiệm cao. 9 GV luôn thể hiện được tính chuẩn mực về trang phục, đi đứng và giao tiếp trong quá trình dạy học và xử lý tốt những tình huống sư phạm trong quá trình dạy học. 10 GV tổ chức kiểm tra, đánh giá thái độ và kết quả học tập của HS – SV đảm bảo được tính trung thực, công bằng, phản ánh đúng khả năng của người học. Kỷ yếu hội thảo khoa học 275 Kết quả SV đánh giá hoạt động giảng dạy của GV trong ba năm gần đây cho thấy như sau: Năm học 2016-2017 loại A là 82/86 GV (đạt 95,3%), loại B 4/86 (4,7%); năm học 2017-2018 loại A là 83/83 GV (100%); năm học 2018-2019 loại A là 81/83 GV (97,6%), loại B 2/83 (2,4%). Kết quả khảo sát này phần nào cũng cho thấy năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giảng viên nhà trường khá tốt [7]. 3. Biện pháp bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên Để có được thực trạng như đã trình bày ở trên, trong những năm học vừa qua và các năm học tới nhà trường đã, đang và sẽ thực hiện một số biện pháp sau đây để bồi dưỡng, rèn luyện năng lực NVSP cho GV. 3.1. Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên Bồi dưỡng NVSP cho giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học là một biện pháp rất quan trọng. Qua khóa học này GV được: trang bị kiến thức cơ bản về khoa học giáo dục đại học; vai trò và sứ mệnh của giáo dục đại học, những xu hướng phát triển của giáo dục đại học hiện đại; kiến thức cơ bản về tâm lý học dạy học, đặc điểm tâm lý người học, lý luận và phương pháp, kỹ năng dạy học đại học; phương pháp cơ bản về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV; hình thành và rèn luyện một số kỹ năng cần thiết như kỹ năng xây dựng đề cương chi tiết môn học và soạn thảo các bài giảng cụ thể; kỹ năng sư phạm cơ bản về phương pháp đánh giá kết quả học tập của SV, phương pháp dạy học, phát triển chương trình giáo dục đại học, cách sử dụng các phương tiện kỹ thuật tiên tiến vào dạy học; kỹ năng phân tích, tổng hợp và đánh giá quá trình dạy học; kỹ năng đọc, viết, trình diễn và giao tiếp trong quá trình dạy học; kỹ năng tổ chức và quản lý trường đại học (cấp bộ môn, khoa), quản lý sinh viên theo quy định và nhiệm vụ của giảng viên; hình thành ý thức nghề nghiệp, đạo đức và tác phong sư phạm mẫu mực của nhà giáo trong các cơ sở đại học, lòng say mê và hứng thú trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học. [4] Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bồi dưỡng NVSP cho giảng viên, ngay sau khi được nâng cấp từ trường THSP thành trường CĐSP vào năm 2000, nhà trường đã mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm theo quy định cho tất cả GV do trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh phụ trách giảng dạy (học 2 môn Triết học và Lý luận dạy học đại học). Năm 2014, nhà trường liên kết với trường Đại học Sư phạm Huế mở lớp đào tạo NVSP cho giảng viên trong cơ sở giáo dục Đại học trên địa bàn tỉnh BR-VT, trong đó có 35 giảng viên của trường tham gia. Năm 2017, nhà trường liên kết với trường Đại học Sư phạm Huế đang tuyển sinh mở lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp cho giảng viên trong cơ sở giáo dục Đại học trên địa bàn tỉnh BR-VT, trong đó có giảng viên của trường tham gia. 3.2. Nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học cho giảng viên Ngoại ngữ và tin học được coi là công cụ hết sức cần thiết để GV tự học có hiệu quả và là công cụ hỗ trợ đắc lực cho đổi mới PPDH. Nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học cho GV là biện pháp được nhà trường rất coi trọng. Nhà trường tập huấn cho GV về kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy Kỷ yếu hội thảo khoa học276 học (năm 2004 hướng dẫn sử dụng máy tính, máy chiếu projector, phòng thí nghiệm thực hành, năm 2014 hướng dẫn sử dụng màn hình ti vi thay máy chiếu projector, hè năm 2019 hướng dẫn sử dụng bảng thông minh và các phương tiện dạy học hiện đại). Từ năm học 2014-2015 nhà trường mở các lớp tiếng Anh đào tạo trình độ theo tiêu chuẩn châu Âu (B1, B2), yêu cầu tất cả GV tự giác tham gia, GV dưới 35 tuổi bắt buộc phải tham gia học tập nghiêm túc, nhà trường hỗ trợ 100% học phí cho GV. 3.3. Khuyến khích, động viên giảng viên tích cực tham gia hội nghị, hội thảo khoa học trong và ngoài trường Thông qua hội nghị, hội thảo khoa học năng lực chuyên môn và NVSP của GV được nâng cao, vì thế cần phải khuyến khích, động viên GV tích cực tham gia và coi như là một biện pháp để nâng cao năng lực NVSP. Trong những năm học vừa qua nhà trường đã tổ chức nhiều hội thảo khoa học như năm 2015, Hội thảo khoa học chủ đề “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề - Thực trạng và giải pháp”; Hội thảo chủ đề “Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể” (năm 2016); năm 2018, Hội thảo khoa học chủ đề “Tư vấn tâm lý học đường trước những tác động của cuộc cách mạng 4.0 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”; năm 2019, Hội thảo chủ đề “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản trị trường học và đạo đức nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”. Hàng năm nhà trường rất chú trọng cử GV tham gia các hội thảo khoa học ngoài trường. 3.4. Tổ chức hội giảng cấp tổ, khoa và tổ chức cuộc thi giáo viên dạy giỏi cấp trường Hội giảng và thi thiết kế bài giảng điện tử E-learning là biện pháp rèn luyện năng lực dạy học cho GV, tạo điều kiện và khuyến khích GV đổi mới PPDH. Nhà trường rất coi trọng hai hoạt động này, hàng năm được tổ chức như là những ngày hội trong trường; GV và SV tham gia rất tích cực và hào hứng. Nhà trường đã đạt giải tập thể và giải khuyến khích cá nhân tại Hội thi thiết kế bài giảng điện tử e-learning do Bộ GD-ĐT tổ chức năm 2012; giải Ba cá nhân năm 2017. 3.5. Cử giảng viên tham gia tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề Hàng năm, GV nhà trường được cử tham gia đầy đủ các khóa tập huấn chuyên đề, tập huấn nghiệp vụ do Bộ Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị tổ chức. 3.6. Giảng viên tự giác đăng ký nhiệm vụ hoạt động nghiên cứu khoa học trong năm học Theo định mức mỗi giảng viên một năm phải hoàn thành 180 giờ NCKH và CN. Căn cứ vào điều kiện và khả năng mỗi giảng viên tự nguyện đăng ký nhiệm vụ hoạt động NCKH và CN trong năm học. Nếu hoàn thành vợt trội được khen, không hoàn thành sẽ chuyển sang giờ dạy. Để hoàn thành nhiệm vụ NCKH và CN, GV có thể làm các công việc sau đây để qui đổi về giờ NCKH: làm đề tài NCKH, viết tài liệu giảng dạy, sáng kiến kinh nghiệm, bài báo khoa học gửi các tạp chí khoa học, hội thảo khoa học, tập san, nội san trong và ngoài trường. 3.7. Đổi mới hình thức và nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn Sinh hoạt tổ chuyên môn theo định kỳ hàng tháng, cần cải tiến hình thức và nội Kỷ yếu hội thảo khoa học 277 dung sinh hoạt tổ chuyên môn sao cho phong phú không gây nhàm chán và đảm bảo hiệu quả nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực NVSP cho mỗi GV. 3.8. Yêu cầu giảng viên đi tìm hiểu thực tế giáo dục phổ thông Các hình thức thực tế tại trường phổ thông như cử GV làm trưởng các đoàn thực tập sư phạm và yêu cầu phải bám sát SV trong suốt thời gian thực tập tại trường phổ thông; quản lý hoạt động của đoàn thực về mọi mặt. Giảng viên bộ môn làm cố vấn cho SV trong các đoàn thực tập sư phạm. Mỗi đoàn thực tập sư phạm thường được bố trí khoảng 12 đến 25 SV. Khác đoàn thực tập sư phạm tại trường mầm non (TTSPMN), trường tiểu học (TTSPTH), SV trong đoàn thực tập sư phạm ở trường trung học cơ sở (TTSPTHCS) được đào tạo với các chuyên ngành khác nhau. Vì vậy việc bố trí cố vấn thực tập sư phạm (CVTTSP) cho mỗi đoàn cũng có điểm khác nhau. Đoàn TTSPMN, TTSPTH mỗi đoàn cử một CVTTSP; đoàn TTSPTHCS mỗi đoàn cử hai CVTTSP (chuyên ngành khác nhau phù hợp với các chuyên ngành của SV về thực tập). Yêu cầu CVTTSP phải có mặt tại các đoàn thực tập được phân công ít nhất 2 buổi một tuần để giúp đỡ HS, SV. Nhiệm vụ của CVTTSP tại trường thực tập là tham gia dự giờ dạy mẫu của giáo viên cùng với SV trong tuần đầu tiên của đợt thực tập; tư vấn cho HS, SV về chuyên môn giảng dạy; làm cầu nối giữa SV với giáo viên hướng dẫn giảng dạy. Qua thực hiện nhiệm vụ cố vấn mà GV nâng cao được năng lực NVSP cho bản thân. Họ đã gắn kết được phương pháp giảng dạy ở nhà trường sư phạm với nhà trường phổ thông, mầm non; gắn kết được lý luận với thực tiễn; kinh nghiệm thực tế được nâng cao. Giảng viên đi dự giờ tại các trường phổ thông. Yêu cầu tất cả GV sư phạm đi dự giờ tại trường phổ thông, mầm non ít nhất mỗi học kỳ được 4 tiết. Trường về dự giờ do GV tự chọn hoặc phòng Đào tạo trường Sư phạm giới thiệu. Thời gian dự giờ tốt nhất là dịp cơ sở giáo dục tổ chức hội giảng toàn trường. Việc dự giờ, thăm lớp này giúp GV hiểu rõ về thực trạng giáo dục hiện nay, biết được những đòi hỏi của cơ sở giáo dục đối với người giáo viên tương lai là những gì, đồng thời năng lực chuyên môn của GV cũng được củng cố và vững chắc. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, GV tham gia dự giờ tại các trường phổ thông, trường mầm non là một biện pháp để năng cao năng lực NVSP. Tham gia sinh hoạt chuyên môn với các tổ bộ môn tại trường phổ thông. Với nội dung sinh hoạt chuyên môn tại trường phổ thông, mầm non rất phong phú và đa dạng, nếu GV trường Sư phạm được tham dự hoạt động này thì đó là một cơ hội để họ nâng cao nhận thức và mở rộng vốn kinh nghiệm. Những trao đổi về kế hoạch dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, là những chủ đề khó, nếu có GV Sư phạm tham gia thì sẽ gây được hứng thú cho cả tổ và tạo dựng được niềm tin ở giáo viên; cũng chính qua các hoạt động trao đổi này GV Sư phạm cũng sẽ nhận thức được khả năng thực sự của giáo viên hiện nay, từ đó có cơ sở đề xuất nội dung bồi dưỡng chuyên môn và NVSP cho giáo viên phổ thông, mầm non và đề xuất kế hoạch, nội dung đào tạo giáo sinh của trường Sư phạm cho phù hợp với Kỷ yếu hội thảo khoa học278 tình hình thực tế. Đưa giảng viên trường sư phạm đi biệt phái ở phổ thông. Do nhu cầu đào tạo nên số SV giảm đáng kể trong những năm gần đây. Thực trạng này dẫn tới một số GV không có hoặc không đủ giờ dạy. Tuy nhiên, đội ngũ này không thể chuyển về trường phổ thông được, vì họ phải giảng dạy trong những năm khác, khóa khác khi nhà trường tuyển sinh, đào tạo các chuyên ngành của số giảng viên này. Để đảm bảo vẫn phát huy được năng lực chuyên môn và NVSP cho GV, nhà trường tính toán và dự kiến danh sách GV đi biệt phái xuống cơ sở giáo dục phổ thông, mầm non một năm hoặc một học kỳ trình sở Giáo dục và Đào tạo phê chuẩn. 3.9. Tạo môi trường làm việc thoải mái về tinh thần, đầy đủ điều kiện làm việc cho đội ngũ GV Nhà trường phải thực sự là môi trường sư phạm thân thiện, dân chủ, bình đẳng, có chính sách đối xử hợp lí tạo tâm lý yên tâm và phấn khởi để GV làm tốt nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục. Cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ, tiện nghi tạo điều kiện thuận lợi cho GV làm việc. Đây là một biện pháp hữu hiệu để bồi dưỡng năng lực NVSP cho đội ngũ GV của nhà trường. 4. Kết luận Việc bồi dưỡng năng lực NVSP là việc làm mang tính cấp thiết và được nhà trường quan tâm, qua tìm hiểu và nghiên cứu cho thấy thực trạng năng lực NVSP của đội ngũ GV nhà trường đã đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và giáo dục đối với SV của trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu. Tuy nhiên, để có năng lực NVSP thực sự vững vàng thì phải được rèn luyện thường xuyên thông qua một số biện pháp như chúng tôi đã trình bày (mục 3). Trong quá trình triển khai các biện pháp cần thực hiện một cách đồng bộ, song còn tùy thuộc vào từng điều kiện cho phép trong mỗi giai đoạn phát triển của nhà trường mà xác định biện pháp nào là cấp thiết cần được ưu tiên. Chúng tôi tin tưởng rằng còn nhiều biện pháp các trường Sư phạm đã và đang áp dụng vào bồi dưỡng năng lực NVSP cho GV mà chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận và học hỏi. Vì vậy, rất mong được sự chia sẻ từ các bạn đồng nghiệp để chúng tôi có thêm nhiều biện pháp hữu hiệu trong việc bồi dưỡng năng lực NVSP cho đội ngũ GV của nhà trường. Tài liệu tham khảo 1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo 3. Chương trình phát triển ngành sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 đến năm 2020 (Phê duyệt kèm theo Quyết định số 6290/QĐ-BGDĐT ngày 13 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Chương trình Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học (Ban hành theo Thông tư số 12/TT-BG- DĐT ngày 12 tháng 4 năm 2913 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). 5. Báo cáo tổng kết hoạt động nghiên cứu khoa học của trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa-Vũng Tàu năm học 2018-2019. Kỷ yếu hội thảo khoa học 279 6. Báo cáo tổng kết công tác hội giảng năm học 2018-2019 của trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa-Vũng Tàu. 7. Báo cáo kết quả lấy ý kiến phản hồi của sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên năm học 2016-2017, 2017-2018, 2018-2019 của trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa-Vũng Tàu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfboi_duong_nang_luc_nghiep_vu_su_pham_cho_doi_ngu_giang_vien.pdf
Tài liệu liên quan