Hiện có khoảng trên ba trăm định nghĩa về văn hoá. Văn hoá, theo các
nhà văn hoá học, là sự kết tinh các giá trị vật chất và tinh thần, do con
người sáng tạo ra, được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở
thành cốt cách con người, truyền thống của nhóm người, dân tộc. Văn
hoá thể hiện cách ứng xử của mỗi con người, nhóm người, dân tộc để
người khác hiểu mình và mình hiểu người khác. Văn hoá làm cho các
nhóm người, tộc người, dân tộc khác nhau. Văn hoá được các nhà xã hội
học định nghĩa như tập hợp các niềm tin, giá trị, tập tục, truyền thống,
lối sống và những đặc trưng xã hội khác nữa. Các nhà nhân học coi văn
hoá là tập hợp những hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được
với tư cách là thành viên của xã hội (Schultz & Lavenda, 2001). Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá, theo nghĩa rộng, được hiểu là
phương thức sống. Người viết “vắn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cộng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ
Chí Minh, 2000:431).
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bối cảnh văn hóa và quản lý nguồn nhân lực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bối cảnh văn hóa và
quản lý nguồn nhân lực
I. Khái niệm văn hóa
1) Định nghĩa
Hiện có khoảng trên ba trăm định nghĩa về văn hoá. Văn hoá, theo các
nhà văn hoá học, là sự kết tinh các giá trị vật chất và tinh thần, do con
người sáng tạo ra, được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở
thành cốt cách con người, truyền thống của nhóm người, dân tộc. Văn
hoá thể hiện cách ứng xử của mỗi con người, nhóm người, dân tộc để
người khác hiểu mình và mình hiểu người khác. Văn hoá làm cho các
nhóm người, tộc người, dân tộc khác nhau. Văn hoá được các nhà xã hội
học định nghĩa như tập hợp các niềm tin, giá trị, tập tục, truyền thống,
lối sống và những đặc trưng xã hội khác nữa. Các nhà nhân học coi văn
hoá là tập hợp những hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được
với tư cách là thành viên của xã hội (Schultz & Lavenda, 2001). Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá, theo nghĩa rộng, được hiểu là
phương thức sống. Người viết “vắn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cộng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ
Chí Minh, 2000:431).
Người ta thường nói đến văn hoá dân tộc, văn hoá tộc người, văn hoá tổ
chức hay văn hoá cộng đồng, đồng thời có những thành tựu văn hoá, văn
minh, các giá trị được coi là tài sản của cả loài người. Hơn nữa, ở cấp độ
cá nhân, văn hoá được thấm vào nhân cách, lối tư duy, cách thức hành
động của từng thành viên cộng đồng, văn hoá được thấm vào từng con
người, trở thành nét văn hoá nhân cách, có nhà nghiên cứu gọi là văn
hoá chủ thể (Adamopoulos & Kashima, 1999). Văn hoá là sự phát huy
các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất
người, nên văn hoá có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù
đó là hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, trong giao
tiếp, ứng xử, hay trong những suy tư thầm kín nhất. Các khái niệm văn
hoá nhân cách, văn hoá gia đình, văn hoá tổ chức, văn hoá cộng đồng,
văn hoá lao động, văn hoá chính trị… đang được sử dụng rộng rãi trong
ngôn ngữ xã hội (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000:11).
Văn hoá tổ chức là cấp trung gian giữa văn hoá dân tộc và văn hoá chủ
thể, có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực cấp tổ chức.
2) Cấp độ văn hóa
Thông thường văn hoá được nói đến ở hai bộ phận: văn hoá vật thể và
văn hoá phi vật thể hay văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Văn hoá
vật thể là các sản phẩm của các nền văn hoá: đền chùa, miếu mạo, kiến
trúc, chứa đựng trong đó những biểu tượng, ý tưởng, niềm tin… Văn
hoá phi vật thể là những sản phẩm tinh thần: văn học, nghệ thuật, phát
minh khoa học, phong tục tập quán… Đây là sự phân chia mang tính
tương đối. Cái gọi là văn hoá vật thể hay văn hoá vật chất thực ra là kết
quả vật thể hoá các giá trị tinh thần mà thôi. Vì vậy, hệ thống giá trị tinh
thần là quan trọng nhất khi xem xét một nền văn hoá.
Văn hoá, theo Schein (1992), biểu hiện ở 3 cấp độ: cấp độ tạo tác
(artifacts), cấp độ giá trị đồng hành (espoused values) và cấp độ những
thừa nhận cơ bản (basic underlying assumptions).
Cấp độ tạo tác cho thấy những biểu hiện cụ thể, bề ngoài của văn hoá,
bao gồm tất cả những hiện tượng có thể nhìn thấy, nghe thấy và cảm
thấy khi gặp, tiếp xúc với những người ở một nền văn hoá khác. Tạo tác
bao gồm những sản phẩm thấy được như kiến trúc, ngôn ngữ, sáng tạo
mỹ thuật, phong cách ăn mặc, lối nói chuyện, sự biểu lộ tình cảm, những
câu chuyện, những nghi lễ, ứng xử. Cấp độ văn hoá này bao gồm những
hành vi hữu hình biểu hiện trong quá trình sinh hoạt. Sự học hỏi của cá
nhân, nhóm người cuối cùng phản ánh những giá trị gốc, những quan
niệm của ai đó về việc phân biệt cái này với cái khác. Khi một nhóm
được thành lập hay khi nó đối mặt với một nhiệm vụ hay vấn đề mới thì
giải pháp đầu tiên đưa ra phản ánh sự thừa nhận của các cá nhân về cái
gì là đúng hay là sai, về cái cần làm và không nên làm. Những cá nhân
có quyền lực, uy tín có thể gây ảnh hưởng lên nhóm. Khi những người
này thuyết phục nhóm hành động theo niềm tin của mình và nếu hành
động mang lại kết quả thì điều đó sẽ dần dần làm thay đổi nhận thức. Sự
thay đổi này xảy ra như một quá trình chuyển đổi nhận thức. Trước tiên,
nó sẽ được chuyển thành giá trị hay niềm tin chung và cuối cùng chuyển
thành sự thừa nhận chung. Quá trình chuyền đổi này xảy ra và sẽ chỉ xảy
ra nếu giải pháp được đưa ra tiếp tục thành công, như vậy có nghĩa là nó
“đúng đắn” ở nghĩa rộng hơn và phản ánh một bức tranh chính xác về
hiện thực. Các thành viên của nhóm sẽ có xu hướng quên rằng họ đã
khống chắc chắn về kết quả và rằng quá trình hành động được diễn ra đã
được thảo luận, đối chất gay gắt lúc ban đầu. Những giá trị mới được
người sáng lập và người lãnh đạo đưa vào, nó tồn tại và dần được
chuyển thành những. thừa nhận hiển nhiên dựa trên những niềm tin,
chuẩn mực và cách thức ứng xử. Tương tự như vậy, ở cấp độ nhân cách,
văn hoá cũng thấm vào từng con người trên các cấp độ: thừa nhận, niềm
tin, giá trị và thói quen hành động. Quá trình này cũng bắt đầu từ hành
động và được củng cố qua sự thành công, tính đúng đắn của kết quả các
hành động đó. Đây là quá trình xã hội hoá các thành viên trong tổ chức,
cộng đồng, dân tộc. Cấp độ những thừa nhận cơ bản là cấp độ văn hoá
vững chắc nhất.
3) Sự biến đổi văn hoá
Inglehart and Baker (2000) cho rằng hệ giá trị chịu sự tác động của trình
độ phát triển kinh tế và đặc trưng của vùng văn hoá. Phát triển kinh tế
trong giai đoạn công nghiệp hoá dẫn đến chuyên môn hoá ngành nghề,
tăng học vấn, tăng thu nhập, và do đó, thay đổi vai trò giới, thái độ với
chính quyền và chuẩn mực tình dục, giảm tỷ lệ sinh, tăng sự tham gia
vào chính trị…Tác động của văn hoá đến cuộc sống và đánh giá của con
người (giá trị) phụ thuộc vào các vùng văn hoá khác nhau mà theo
Huntington có 8 vùng: Thiên chúa giáo Phương Tây, thế giới đạo chính
thống, đạo Hồi, đạo Khổng, Nhật Bản, Hin Đu, châu Phi và châu Mỹ La
tinh.
Thay đổi văn hoá không diễn ra theo đường thẳng. Trong xã hội công
nghiệp, sự giải thích lịch sử và lòng tin thế lực thông qua hoạt động công
nghiệp được điều khiển theo quy tắc, trong tổ chức hành chính. Trong xã
hội hậu công nghiệp, không tăng thêm sản xuất về số lượng mà tăng
địch vụ và khu vực tri thức. Sự chuyển hướng từ chinh phục thiên nhiên,
đối chọi với thiên nhiên sang tương tác giữa con người với nhau, tập
trung vào trao đổi và xử lý thông tin. Con người làm việc chủ yếu với
người khác và với ký hiệu. Do vậy, sự phát triển của xã hội hậu công
nghiệp dẫn tới sự tập trung vào sự tự thể hiện mình trong mối quan hệ
giữa con người và con người.
Inglehart and Baker (2000) đã phân bố các giá trị theo 2 trục: giá trị
truyền thống (Traditional) đối lập với các giá trị thế tục – duy lý (Secular
– Rational) và giá trị sinh tồn (Survival) đối lập với giá trị tự thể hiện
mình (Self – Expression). Các giá trị mang nội dung kinh tế, chính trị,
công việc, gia đình, tôn giáo… đều được đưa vào trong hai trục giá trị
này.
Các giá trị truyền thống (thường thấy trong xã hội nông nghiệp) có thể
kể đến là không bao dung với ly dị, đồng tính luyến ái và nạo thai, ủng
hộ đàn ông thống trị về chính trị và kinh tế, bảo vệ quyền của cha mẹ
(con cái nghe lời, chăm chỉ, không đánh giá cao sự sáng tạo, độc lập của
con cái), ý nghĩa quan trọng của cuộc sống gia đình phong cách độc
đoán, giá trị tín ngưỡng cao. Ở các xã hội tiên tiến, các giá trị này có ý
nghĩa theo chiều ngược lại.
Theo trục giá trị Sinh tồn – Tự thể hiện mình, có thể đưa ra các giá trị
liên quan đến mức độ tin cậy, sự độ lượng, hạnh phúc, tính tích cực
chính trị, tự thể hiện mình. Trong xã hội tiền công nghiệp, các giá trị
được tìm thấy ở sự ít an toàn kinh tế và cảm giác hạnh phúc thấp, khó
tồn tại trong hoàn cảnh đa sắc tộc và sự thay đổi văn hoá. Trong xã hội
hậu công nghiệp, có thể quan sát thấy sự đi chuyển giá trị từ an toàn
kinh tế và cơ thể sang nhấn mạnh sự tự thể hiện mình, cảm giác hạnh
phúc và chất lượng cuộc sống.
Nghiên cứu của Inglehart & Baker (2000) đã chứng minh rằng giá trị
thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và chịu sự tác động của vùng
văn hoá. Nếu xét theo chỉ số thu nhập, các nước có thu nhập đầu người
cao có chiều hướng đánh giá cao các giá trị thế tục duy lý, các nước có
thu nhập thấp thiên về giá trị truyền thống (theo trục giá trị truyền thống
– duy lý), đồng thời các nước có thu nhập cao thiên về các giá trị tự thể
hiện mình và các nước có thu nhập thấp có chiều hướng thiên về các giá
trị sinh tồn xét theo trục giá trị sinh tồn – tự thể hiện mình. Tuy nhiên,
trong cùng một mức thu nhập, các chỉ số giá trị phụ thuộc rất nhiều vào
các vùng văn hoá, những đặc điểm tôn giáo, triết lý, thể chế chính trị có
ảnh hưởng đến hệ giá trị.
Sự thay đổi giá trị cũng diễn ra theo thời gian do những tác động của
kinh tế, chính trị. Hệ giá trị ở Nga và các nước Đông Âu thay đổi từ năm
1991 – 1997 theo hướng đánh giá bi quan hơn, thiên về giá trị sinh tồn
hơn (theo trục sinh tồn tự thể hiện mình) và các giá trị truyền thống hơn
(theo trục truyền thống – duy lý). Theo độ tuổi của người được phỏng
vấn, ở tất cả các xã hội, không phụ thuộc vào trình độ kinh tế và vùng
văn hoá, người trẻ tuổi có hệ giá trị thiên về giá trị tự thể hiện mình hơn
(theo trục sinh tồn – tự thể hiện mình) và các giá trị duy lý hơn (theo
trục truyền thống – duy lý).
Như vậy, do tác động của phát triển kinh tế và văn minh loài người, văn
hoá (cụ thể là hệ giá trị) có những biến đổi theo hướng tiến tới một hệ
thống giá trị duy lý hơn và tự thể hiện mình hơn. Tất nhiên, ở nơi này
nơi kia có những xu hướng cục bộ khác, nhưng nhìn chung văn hoá vẫn
biến đổi theo xu thế chung đó.
4) Văn hoá và nguồn nhân lực
* Khái niệm nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người
tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng,
Fischer & Dornhusch, 1995). Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc
(2001), là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa
phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó.
Khi nói đến nguồn nhân lực, người ta bàn đến trình độ, cơ cấu, sự đáp
ứng với yêu cầu của thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực
phản ánh trong trình độ kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao
động. Sự phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động
(công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở nước ta hiện
nay, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế tri thức phân loại lao động theo
tiếp cận công việc nghề nghiệp của người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực
lượng lao động được chia ra lao động thông tin và lao đọng phi thông
tin. Lao động thông tin lại được chia ra 2 loại: lao động tri thức và lao
động dữ liệu. Lao động dữ liệu (thư ký, kỹ thuật viên…) làm việc chủ
yếu với thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức phải
đương đầu với việc sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá
thông tin. Lao động quản lý nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi
thông tin được chia ‘ra lao động sản xuất hàng hoá và lao động cung cấp
dịch vụ. Lao động phi thông tin dễ dàng được mã hoá và thay thế bằng
kỹ thuật, công nghệ. Như vậy, có thể phân loại lực lượng lao động ra 5
loại: lao động tri thức, lao động quản lý, lao động dữ liệu, lao động cung
cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá. Mỗi loại lao động này có
những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm. Nồng độ tri thức,
trí tuệ cao hay thấp trong sản phẩm lao động phụ thuộc chủ yếu vào
đóng góp của lực lượng lao động trí thức, quản lý và phần nào của lao
động dữ liệu ở nước ta, tỷ lệ lao động phi thông tin còn rất cao trong cơ
cấu lực lượng lao động, do đó hàng hoá có tỷ lệ trí tuệ thấp. Muốn tăng
khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cần tăng nhanh tỷ lệ trí tuệ
trong hàng hoá trong thời gian tới.
* Những đặc trưng văn hoá của nguồn nhân lực nước ta hiện nay
Khi nói đến văn hoá theo nghĩa là phương thức sinh hoạt thì văn hoá có
mặt trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống cá nhân.
Trong các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, tôn giáo, gia
đình… con người đều thể hiện hành vi ứng xử trên cơ sở những giá trị,
niềm tin, thói quen đã có. Phân tích các lĩnh vực hoạt động trên sẽ giúp
tìm ra những đặc điểm văn hoá đang ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới
sự đóng góp của nguồn nhân lực vào quá trình CNH, HĐH đất nước và
nhờ đó có thể tìm ra các giải pháp khắc phục những nhược điểm đó.
Kinh tế liên quan đến hoạt động sản xuất và phân phối có thể tuân theo
cơ chế thị trường hoặc kế hoạch hoá tập trung, cũng có thể phối hợp hai
cơ chế này. Trình độ phát triển của nền kinh tế và cách làm ăn kinh tế
ảnh hưởng rất lớn đến cách thức sinh hoạt, làm việc, ứng xử của con
người trong xã hội.
Nền kinh tế Việt Nam hiện còn yếu kém, đang trong qúa trình chuyển từ
kinh tế nông nghiệp sang giai đoạn công nghiệp hóa. Quan hệ kinh tế thị
trường chưa hoàn thiện. Chính sự manh mún, trình độ lạc hậu của quá
trình sản xuất và trao đổi hàng hóa đã tạo ra tác phong làm việc thiếu
khoa học, quan hệ hợp tác yếu, tầm nhìn hạn hẹp, tư duy bản vị, cục bộ
ở nhiều người lao động. Chế độ đãi ngộ còn dựa vào thâm niên, chưa
đánh giá cao nguyên tắc đãi ngộ theo cống hiến.
Nền chính trị bao gồm các cấu trúc và hoạt động liên quan đến phân bổ
và sử dụng quyền lực cũng như quy tắc tiếp cận với nguồn lực và các cơ
hội phát triển. Thể chế chính trị có thể dân chủ, độc tài, có thể cho phép
hay loại bỏ các nhóm sắc tộc, giới, tuổi hay vị thế kinh tế khỏi việc tham
gia quyền lực.
Nền chính trị của nước ta đã chuyển sang thể chế dân chủ dưới sự lãnh
đạo của Đảng, hiến pháp và pháp luật đã bảo đảm quyền tự do của con
người. Tuy nhiên, do sự phát triển bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, ý
thức và tư duy con người Việt Nam về quyền lực, về chính trị vẫn còn
nhiều dấu ấn phong kiến. Hệ thống quản lý hành chính quan liêu trong
nhiều năm chiến tranh còn ảnh hưởng rất nặng nề trong cách làm ăn kinh
tế và quản lý xã hội. Mỗi cá nhân hãy còn chưa ý thức hết được quyền
và nghĩa vụ của mình trong chế độ xã hội dân chủ. Trong Điều tra Giá trị
thế giới 2001, người lao động khi được hỏi về xu hướng thiên về tuân
thủ theo mệnh lệnh hay muốn làm rõ lý lẽ trước khi thực thi, có tới
46,2% có xu hướng làm theo mệnh lệnh, 40% cho biết muốn thông tỏ
trước khi chấp hành và 13,8% tuỳ thuộc tình hình.
Niềm tin vào lực lượng siêu nhân cùng với những giáo lễ, quy tắc có ảnh
hưởng lớn đến lối tư duy, cách sống và làm việc của con người. Tín
ngưỡng ảnh hưởng đến tạo lập niềm tin, các chuẩn mực đạo đức (tốt hay
xấu), ý nghĩa của cuộc sống, thậm chí cách thức ăn, mặc, làm việc và
quan hệ với người khác.
Kết quả điều tra giá trị thế giới cho thấy 15% số người được hỏi theo
đạo Phật, 30% thờ cúng tổ tiên, 46% số người cho biết không theo tôn
giáo nào. Mặc dù không tham gia giáo lễ, đại bộ phận người Việt Nam
trực tiếp hay gián tiếp chịu ảnh hưởng của giáo lý đạo Phật. Họ lấy lòng
vị tha, từ bi bác ái, tin vào điều thiện để giáo đục con người. Đây là điểm
tốt giúp cho xã hội ôn hoà, quan hệ con người thân thiện, nhưng chính
triết lý tình thương này làm cho con người ứng xử thiên về tình cảm,
thiếu nguyên tắc, coi nhẹ quy định pháp luật trong công việc và cuộc
sống.
Gia đình có vai trò rất khác nhau trong các nền văn hoá. Gia đình có thể
có quy mô nhỏ chỉ bao gồm cha mẹ và con cái đến gia đình lớn bao gồm
nhiều thế hệ sống chung trong một mái nhà. Trong các gia đình nhỏ,
trách nhiệm và quyền lợi của cá nhân được đề cao, trong khi đó ở các
gia đình lớn các thành viên phải hy sinh quyền lợi, mong muốn và
nguyện vọng của cá nhân cho lợi ích chung. Quy mô gia đình chịu sư
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế. ở các nền văn hoá có kinh tế
kém phát triển, các thành viên phải lấy gia đình làm nơi nương tựa.
Gia đình ở Việt Nam được đánh giá cao. Kết quả điều tra giá trị thế giới
2001 cho thấy 82,4% số người trả lời cho rằng gia đình rất quan trọng,
chỉ có 0,6% cho rằng gia đình không quan trọng, số còn lại cho rằng gia
đình khá quan trọng. Tương ứng với các mức đánh giá về tầm quan
trọng của chính trị là: 38,7%, 22,1% và 39,2, của tôn giáo: 10%, 66,5%
và 23,6%, của công việc là: 56,8%, 6% và 37,1%. Trong bốn giá trị nêu
ra, gia đình đứng vị trí cao nhất, cao hơn cả công việc. Chính trị đóng
vai trò quan trọng hơn tôn giáo trong hệ giá trị của người Việt Nam hiện
nay.
Trong gia đình, con cái phụ thuộc rất nhiều vào cha mẹ và cha mẹ khi
già yếu phải trông cậy rất nhiều vào sự chăm sóc của con cái. Có tới
99,3% số người được hỏi cho rằng: dù cha mẹ có phẩm chất hay lỗi lầm
như thế nào đi nữa, con cái vẫn phải tôn trọng và yêu quý cha mẹ. Đối
với cha mẹ, 87,4% số người được hỏi cho rằng nọ phải cố gắng hết sức
với con cái, kể cả khi phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Trong xã hội Việt Nam, các thành viên trong gia đình, đòng họ phụ
thuộc vào nhau. Quan hệ thân tộc, gia đình vì thế rất chặt chẽ. Sự chia
sẻ, chở che giữa các thành viên trong gia đình đã ảnh hưởng đến cách
ứng xử trong công việc xã hội. Tác phong gia đình chủ nghĩa đã ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả công tác và tính nguyên tắc trong thực thi
pháp luật. Sự cam kết mạnh mẽ với gia đình, đòng họ và người thân
quen, nhiều khi, vô hiệu hoá hoặc cản trở cam kết với tổ chức. Do sự
cam kết mạnh mẽ với nhân tố bên ngoài đó (trong trường hợp này là gia
đình và người thân quen), người lao động, nhiều khi, chỉ coi tổ chức là
phương tiện để đạt mực đích của gia đình, đòng họ hay người thân quen.
Điều này làm suy yếu chính sách nguồn nhân lực liên quan đến tuyển
chọn, bổ nhiệm và đãi ngộ người lao động.
Giáo dục ảnh hưởng lớn đến hình thành nhân cách học sinh và người lao
động tương lai. Có những. nền giáo dục yêu cầu tuyệt đối tôn trọng và
nghe theo người thầy, sản phẩm của các nền giáo dục đó là những con
người thụ động, thiếu kỹ năng giao tiếp và khả năng giải quyết vấn đề
một cách độc lập. Trong khi đó ở các nền văn hoá khuyến khích sự tham
gia, tồn tái quan hệ bình đẳng giũa thầy và trò, xuất hiện sự khác biệt
trong phát triển nhân cách người học. Người học được rèn luyện kỹ năng
sống độc lập, được khuyến khích tính tự chủ và khả năng sáng tạo.
Nước ta chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo và các giá trị văn
hoá Phương Đông, các phẩm chất chuyên cần, vâng lời, có trách nhiệm
với tập thể, lòng khoan dung độ lượng được đánh giá cao, trong khi việc
giáo đục trí tưởng tượng, tính độc lập, tính cá nhân được đánh giá thấp
hơn. Điều này phản ánh trong kết quả điều tra giá trị thế giới: 75,5% số
người được hỏi cho rằng cần giáo dục tính chuyên cần ở trẻ em, 70,8%
giáo dục tinh thần trách nhiệm, 67,9% giáo dục lòng khoan dung và tôn
trọng người khác, trong khi đó chỉ 56,4% số người trả lời cho rằng cần
giáo dục trẻ em tính độc lập và 20,2% cần giáo dục trí tưởng tượng.
Ngôn ngữ cũng chứa đựng trong mình những đặc trưng văn hoá. Phong
cách ngôn ngữ trực tiếp hay gián tiếp thể hiện văn hoá mở hay đóng.
Cách xưng hô, cách diễn đạt thể hiện tính đẳng cấp trong giao tiếp. Ví
dụ, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai trong tiếng Anh chỉ dùng một từ (you),
trong khi tiếng Việt có tới hàng chục từ (anh chị, ông bà, chú bác…),
phụ thuộc vào lứa tuổi, giới tính, vị thế, quan hệ. Do vậy, những người
sử dụng tiếng Anh có cơ hội được bình đẳng hơn những người dừng
tiếng Việt.
Yếu tố lịch sử và tự nhiên cũng ảnh hưởng đến văn hoá, tính cách con
người. Tính cách dân tộc phụ thuộc vào vị thế chính trị, kinh tế, văn hoá
của dân tộc đó trong lịch sử. Sống trên dải đất hẹp, thiên nhiên khắc
nghiệt, dân ta phải chống chọi với sự khắc nghiệt của tự nhiên như giông
bão, lũ lụt và khắc phục hậu quả của chúng để tồn tại. Hơn thế nữa, dân
tộc ta đời nào cũng phải đương đầu với sự xâm lược của ngoại bang
bằng sức mạnh. Sự nổi bật trong tính cách người Việt là lòng gan dạ, ý
chí kiên cường bất khuất trong chiến tranh, nhưng cũng rất yêu hoà bình,
có tính cách hiền hoà, ít xâm kích. Những biểu hiện thái quá của nét tính
cách này là sự ứng xử dĩ hoà vi quý. Những biểu hiện tiêu cực do chiến
tranh để lại có thể thấy ở thói quen làm ăn tạm bợ, coi nhẹ việc tuân theo
quy trình kỹ thuật chặt chẽ. Cũng đã ảnh hưởng của nhiều thập kỷ chiến
tranh, sự đô hộ của ngoại bang, tư tưởng kỳ thị, cục bộ địa phương, tâm
lý vọng ngoại, háo danh… của nhiều người mà có nhà nghiên cứu nhắc
đến như những biểu hiện của di chứng nô lệ (Vũ Hạnh, 2000).
Như vậy có thể tóm lược một vài đặc điểm văn hoá của nguồn nhân lực
ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của
nước ta trong thời gian tới. Trước hết do trình độ phát triển kinh tế thấp,
người lao động có lối làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, tầm nhìn ngắn hạn, ý
thức kỷ luật thấp, làm ăn thiếu tuân thủ quy trình nghiêm ngặt. Người
quản lý sử dụng các phương pháp quản lý của lối sản xuất nhỏ lẻ này
nên cũng tuỳ tiện, thiếu nguyên tắc. Xã hội được tổ chức theo kiểu cộng
đồng, nơi các quan hệ thân tộc đóng vai trò quan trọng. Tục lệ theo lối
“phép vua thua lệ làng” hãy còn chi phối hoạt động và lồi sống của
nhiều cộng đồng. Pháp luật chưa được tuân thủ nghiêm ngặt.
Quan hệ gia đình chặt chẽ, tôn trọng tình cảm đã ảnh hưởng đến cách
ứng xử trong công việc, nhiều khi dẫn đến sự lẫn lộn các quan hệ gia
đình và quan hệ công vụ. Do cách xưng hô có nhiều thang bậc, công sở
nhiều khi được xem như những gia đình lớn. Cấu trúc xã hội được hành
chính hoá, thông tin khó được lưu chuyển tự do từ trên xuống dưới, từ
dưới lên trên, giữa các bộ phận và cá nhân dẫn đến việc ra quyết đinh
thiếu thông tin do có quá ít ý kiến đóng góp của những người liên quan.
5) Văn hoá và quản lý nguồn nhân lực
Quản lý nguồn nhân lực phụ thuộc vào triết lý, cách nhìn nhận của người
lao động.
Cách ứng xử, cách thức hành động phụ thuộc vào quan niệm, những
thừa nhận, hệ thống giá trị được chia sẻ trong một nền văn hoá. Có thể
đưa ra đây: 3 lý thuyết (X, Y, Z) được nhắc đến trong quản lý như những
lý thuyết cơ bản. Hai lý thuyết X và Y do Douglas Gregor đưa ra. Hai lý
thuyết này tương tự như tư tưởng pháp trị của Hàn phi tử và tư tưởng
đức trị của Khổng tử. Thuyết X cho rằng con người bình thường có mối
ác cảm với công việc và sẽ lẩn trốn chúng. Bản chất con người không
thích làm việc nên phải ép buộc, điều khiển, hướng dẫn và đe dọa buộc
họ phải hết sức cố gắng. Thuyết X xác nhận bản chất máy móc vô tổ
chức của con người. Đối với những người theo lý thuyết này, điều khiển
từ bên ngoài thông qua giám sát chặt chẽ là thích hợp nhất để đối phó
với những người không đáng tin cậy. Chỉ có tiền bạc và đe dọa bằng
hình phạt mới thúc đẩy được người ta làm việc.
Thuyết Y đưa ra quan niệm nhân bản và lạc quan về hành vì con người.
Điều khiển từ bên ngoài không phải là cách duy nhất để buộc con người
phải cố gắng. Con người sẽ tự chủ bản thân. Thăng thưởng là cách tất để
khuyến khích họ thực hiện công việc. Thuyết Y sử dụng cách quản lý
thông qua tự giác và tự chủ.
Hai lý thuyết X và Y đều nhìn con người phiến diện, một chiều. Lý
thuyết Z phối hợp cách nhìn nhận rằng con người có những mặt tích cực
và mặt tiêu cực, không tuyệt đối hoá mặt tiêu cực của con người. Lý
thuyết Z do William Ouchi đưa ra trong cuốn sách. Thuyết Z đã từng
bán chạy nhất tại Mỹ năm 1981. Ouchi đặt vấn đề rằng Người Mỹ nên
học tập người Nhật trong sử dựng con người theo chế độ suốt đời. Đề
bạt chậm song chú ý các quan hệ không chính thức, tế nhị và phức tạp
của đồng nghiệp. Ouchi chú ý đến tinh thần và giá trị tập thể, hoàn toàn
xa lạ với chủ nghĩa cá nhân phương Tây.
Giá trị của lý thuyết Z là ở chỗ đã trình bày vai trò của “một nền văn hoá
kiểu Z” đối với sự phát triển nhanh chóng và vững chắc của doanh
nghiệp. Ông lý giải văn hoá của doanh nghiệp bao gồm một tập hợp biểu
tượng, nghi lễ và huyền thoại cho phép truyền đạt đến người làm việc
các giá trị và mềm tin nội bộ của doanh nghiệp. Những nghi thức ấy cho
phép cụ thể hoá những cái chỉ là ý tưởng trừu tượng, nền văn hoá của
doanh nghiệp làm cho những ý niệm ấy sống động và gây ảnh hưởng rõ
rệt đối với nhân viên mới. Hạt nhân của nền văn hoá là triết lý kinh
doanh của nó. Đó là hệ thống những giá trị có ý nghĩa định hướng rất
thiết thực. Nền văn hoá kiểu Z được Ouchi phác thảo gồm những nội
dung: mọi người gắn bó lâu đài với Công ty, có quyền phê bình và tỏ
thái độ trung thực, được tham gia vào quá trình quản lý, phát triển các
quan hệ tin cậy, tính hợp tác giữa những người cũng làm việc, người lao
động có tinh thần tập thể. Ông phê phán phương Tây đánh giá cao công
nghệ mà coi nhẹ quan hệ con người trong tổ chức.
Bảng 1. Sự khác nhau về quản lý nguồn nhân lực tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- boi_canh_van_hoa_va_quan_ly_nguon_nhan_luc_483.pdf