Biến chứng tiềm ẩn khi mang thai và sinh nở

Một số vấn đề và bệnh nghiêm trọng có thể nảy sinh trong khi mang thai và

sinh nở. Những biến chứng phổ biến là thai ngoài tử cung, nhiễm trùng do virus

herpes, bệnh sởi (rubella), bệnh toxoplasma, tiền sản giật và sản giật, sảy thai và

sinh non. Người phụ nữ cũng có thể phải chịu bất kỳ các vấn đề khác ngoài những

vấn đề trên khi mang thai, chẳng hạn như buồn nôn vào buổi sáng, bệnh trĩ và

chứng sạm da.

pdf7 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Biến chứng tiềm ẩn khi mang thai và sinh nở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Biến chứng tiềm ẩn khi mang thai và sinh nở Một số vấn đề và bệnh nghiêm trọng có thể nảy sinh trong khi mang thai và sinh nở. Những biến chứng phổ biến là thai ngoài tử cung, nhiễm trùng do virus herpes, bệnh sởi (rubella), bệnh toxoplasma, tiền sản giật và sản giật, sảy thai và sinh non. Người phụ nữ cũng có thể phải chịu bất kỳ các vấn đề khác ngoài những vấn đề trên khi mang thai, chẳng hạn như buồn nôn vào buổi sáng, bệnh trĩ và chứng sạm da. Thai ngoài tử cung Nếu trứng được thụ tinh làm tổ bên ngoài tử cung thì sẽ gây nên chứng mang thai lạc vị, loại mang thai lạc vị phổ biến nhất là mang thai trong vòi trứng. Trừ khi được phát hiện và lấy ra sớm, còn không thì phôi thai sẽ phát triển cho đến khi vòi bị vỡ, gây ra hiện tượng xuất huyết, khiến phụ nữ vô cùng đau đớn và một số trường hợp có thể dẫn đến tử vong. Phụ nữ có thể nhầm lẫn giữa việc mang thai bình thường với mang thai lạc vị, vì ít nhất ở thời kỳ đầu nó cũng có các dấu hiệu bình thường như có sự thay đổi hormon, mất kinh, buồn nôn vào buổi sáng. Mang thai lạc vị có thể tự sảy thai, mặt khác cần phải tiến hành phẫu thuật để lấy thai ra ngay sau khi phát hiện. Hầu hết phụ nữ sau khi mang thai lạc vị vân có thể có con lại bình thường. Nhiễm trùng do virus herpes Nhiễm trùng do virus herpes gây ảnh hưởng chủ yếu đến thai nhi hơn là người mẹ. Nó có thể lây truyền qua đường tình dục và lây từ mẹ sang con. Những người lớn bị nhiễm trùng do virus herpes thường không thấy có triệu chứng gì, trong khi đó thai nhi bị lây nhiễm từ mẹ có nguy cơ bị dị dạng cao, chẳng hạn như chậm phát triển, động kinh, liệt não, mù hoặc điếc. Hiện nay, chưa có cách chữa trị hay vaccine phòng chống nhiễm trùng do virus herpes. Bệnh rubella Phơi nhiễm virus rubella, hay bệnh sởi Đức, trong thời gian mang thai gây ra các nguy cơ trầm trọng đối với sự phát triển của thai nhi, đặc biệt là ở 3 tháng đầu. Sự thiếu hụt bẩm sinh gây ra bởi bệnh rubella gồm: phát triển trước khi sinh chậm, các dị thường ở nhiễm săc thể mù, điếc, tổn thương não, các tổn thương ở tim. Tiêm chủng khi còn bé sẽ giúp phòng ngừa bệnh rubella và việc tiêm chủng này có tác dụng đến suôt đời. Bất kỳ phụ nữ nào có dự định mang thai nhưng chưa từng bị rubella hay chưa tiêm phòng cần tiêm ngừa trước khi có thai. Bệnh toxoplasma Bệnh toxoplasma bắt nguồn từ ký sinh trùng toxoplasma gondii, ký sinh trùng này có trong thịt nấu chưa chín và phân động vật. Mèo là nguồn chính gây nhiễm bệnh toxoplasma cho con người. Nhưng người bị nhiễm bệnh này thường có ít triệu chứng, trong khi đó thai nhi nhiễm bệnh có thể bị hỏng não, hoặc chêt lưu. Sulfasiazine một loại thuốc nhóm sunfonamide có thể được sử dụng mà không gây hại đến thai nhi, để điều trị bệnh này trước khi sinh hai tháng. Tiền sản giật và sản giật Phụ nữ bị tiền sản giật hay “nhiễm độc huyết” sẽ bị tăng huyết áp, giữ nước mạnh và phù khi mang thai. Các triệu chứng của bệnh này thường từ mức độ nhẹ (phù tư chi) đến nặng (co giật và tử vong). Nhiễm độc huyết nặng được gọi là sản giật. Nguyên nhân chính xác gây ra nhiễm độc huyết hiện vẫn chưa được biêt, tuy nhiên dinh dưỡng không đầy đủ có thể là một phần nguyên nhân. Sảy thai Sảy thai là sự sảy một cách tự phát của thai nhi không thể sống được (thai không co khả năng sống ở ngoài tử cung) ít hơn 20 tuần tuổi. Vì người phụ nữ có thê nhầm sảy thai với có kinh trước khi biết là mình có thai nên việc xác định số ca sảy thai hàng năm là một việc khó khăn. Tuy nhiên, theo ước tính có khoảng 20% phụ nữ mang thai ở Mỹ bị sảy thai, đa số những trường hợp sảy thai này xuất hiện ở 3 tháng đầu của thai kỳ. Những dị thường ở nhiễm săc thể và mang thai khi tuổi đã cao (trên 35 tuổi) là những nguyên nhân chính dẫn đến việc sảy thai. Sinh non Trẻ sinh non chiếm khoảng từ 7- 10% trong số những trẻ em được sinh ra ở Mỹ, trẻ sinh non nặng dưới 2,5kg và được sinh ra khi thai ít hơn 36 tuần tuổi. Mặc dù những nguyên nhân gây ra việc sinh non vẫn chưa được biết, nhưng sinh non có thể liên quan đến chế độ ăn uống thiếu thốn, sử dụng rượu và thuốc khi mang thai, hút thuốc lá thiếu sư chăm sóc trước khi sinh hay có tiền sư sảy thai trước đó. Như đã biết, trẻ sơ sinh càng nhẹ cân càng ít có cơ hôi sống. Trẻ sinh non thường gặp các vấn đề xuất huyết, gặp khó khăn khi thở, bú sữa và tiêu hóa. Những vân đề này thường mất đi khi đứa trẻ tăng cân. Kiểm tra để phát hiện những bất thường khi mang thai Một số phương pháp chẩn đoán có thể kiểm tra xem bào thai có khả năng bị các dị tật hay khiếm khuyết nào không. Một trong số những phương pháp phổ biến nhất được sử dụng là chẩn đoán bằng siêu âm. Chẩn đoán bằng siêu âm liên quan đến việc chụp hình chuyển động của bào thai và đặc biệt hữu dụng trong việc chẩn đoán các rối loạn trước khi sinh, theo dõi nhịp tim của thai nhi và biết trước được giới tính của thai. Hiên tại, không có bằng chứng nào chứng minh rằng sóng siêu âm gây hại đến thai nhi hay người mẹ cả. Các kiểm tra bằng việc chọc ối giúp biết xem có sự nhiễm trùng bào thai hay các dị thường về nhiễm sắc thể hay không. Bác sĩ xác định vị trí bào thai bằng phương pháp siêu âm để tránh đâm vào bào thai, rồi sau đó dùng một cái kim rỗng để rút dịch ở túi ối. Phương pháp chọc ối này thường được thực hiện khi thai được khoảng 15 tuần tuổi. Phương pháp này cho phép cha mẹ có đủ thời gian để quyết định xem có giữ thai lại cho đến khi sinh nếu như thai có những khuyết tật nặng hay không. Kết quả kiểm tra bằng phương pháp này thường có trong vòng từ 3-4 tuần. Nguy cơ gây sảy thai do chọc ối ít hơn 1%.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbien_chung_tiem_an_khi_mang_thai_va_sinh_no_621.pdf
Tài liệu liên quan