Nhóm ức chế men phosphodiesterase-5 (PDE-5): Sildenafil, Tadalafil,
Vardenafil được sử dụng rộng rãi để điều trị rối loạn cương ở nam giới và có thể
gây những ảnh hưởng đến bệnh nhân tim mạch. Đa số các nghiên cứu về thuốc rối
loạn cương thực hiện trên Sildenafil.
Sildenafil (Viagra) có thể cải thiện chức năng cương ở bệnh nhân thiếu máu
cơ tim ổn định. Trong một nghiên cứu trên 357 bệnh nhân thì có 70% bệnh nhân
cải thiện chức năng cương so với20% của nhóm dùng giả dược. Sildenafil cũng
hiệu quả với bệnh nhân có rối loạn cương với tăng huyết áp, đái tháo đường, hay
do nguyên nhân tâm lí.
Sildenafil có hai tác dụng quan trọng đối với bệnh nhân tim mạch: đó là hạ
huyết áp và tương tác với nhóm nitrat. Sildenafil là thuốc làm dãn mạch có thể
llàm giảm kháng lực mạch máu hệ thống. Nó làm giảm huyết áp tâm thu khoảng
8mmHg, một ảnh hưởng không thấy rõ nếu bệnh nhân có dùng một thuốc hạ huyết
áp dãn mạch khác, ví dụ như Amlodipine. Một nghiên cứu hồi cứu cũng nhận xét
rằng các biến cố tim mạch , bao gồm cả các biến cố có liên quan đến huyết áp như
hạ huyết áp, chóng mặt, ngất, ở nhóm dùng Sildenafil và nhóm dùng Sildenafil +
thuốc hạ áp. Sildenafil cũng làm giảm các động mạch vành ở các bệnh nhân bệnh
mạch vành, cải thiện chức năng nội mạc và ức chế sự kích hoạt tiểu cầu.
Vardenafil (Levitra) và Tadalafil (Cialis) thì tác dụng chọn lọc hơn và ức
chế men PDE-5 mạnh hơn Sildenafil. Cả hai thuốc này đều có hiệu quả trong điều
trị rối loạn cương như Sildenafil. Tadalafil có ưu điểm là thời gian tác dụng lâu
hơn, nên cho phép thoải mái hơn trong quan hệ.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1150 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bệnh tim mạch và mối liên quan đến hoạt động tình dục (Kỳ 3), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh tim mạch và mối liên quan
đến hoạt động tình dục
(Kỳ 3)
Nhóm ức chế men phosphodiesterase-5 (PDE-5): Sildenafil, Tadalafil,
Vardenafil được sử dụng rộng rãi để điều trị rối loạn cương ở nam giới và có thể
gây những ảnh hưởng đến bệnh nhân tim mạch. Đa số các nghiên cứu về thuốc rối
loạn cương thực hiện trên Sildenafil.
Sildenafil (Viagra) có thể cải thiện chức năng cương ở bệnh nhân thiếu máu
cơ tim ổn định. Trong một nghiên cứu trên 357 bệnh nhân thì có 70% bệnh nhân
cải thiện chức năng cương so với 20% của nhóm dùng giả dược. Sildenafil cũng
hiệu quả với bệnh nhân có rối loạn cương với tăng huyết áp, đái tháo đường, hay
do nguyên nhân tâm lí.
Sildenafil có hai tác dụng quan trọng đối với bệnh nhân tim mạch: đó là hạ
huyết áp và tương tác với nhóm nitrat. Sildenafil là thuốc làm dãn mạch có thể
llàm giảm kháng lực mạch máu hệ thống. Nó làm giảm huyết áp tâm thu khoảng
8mmHg, một ảnh hưởng không thấy rõ nếu bệnh nhân có dùng một thuốc hạ huyết
áp dãn mạch khác, ví dụ như Amlodipine. Một nghiên cứu hồi cứu cũng nhận xét
rằng các biến cố tim mạch , bao gồm cả các biến cố có liên quan đến huyết áp như
hạ huyết áp, chóng mặt, ngất, ở nhóm dùng Sildenafil và nhóm dùng Sildenafil +
thuốc hạ áp. Sildenafil cũng làm giảm các động mạch vành ở các bệnh nhân bệnh
mạch vành, cải thiện chức năng nội mạc và ức chế sự kích hoạt tiểu cầu.
Vardenafil (Levitra) và Tadalafil (Cialis) thì tác dụng chọn lọc hơn và ức
chế men PDE-5 mạnh hơn Sildenafil. Cả hai thuốc này đều có hiệu quả trong điều
trị rối loạn cương như Sildenafil. Tadalafil có ưu điểm là thời gian tác dụng lâu
hơn, nên cho phép thoải mái hơn trong quan hệ.
Những nghiên cứu về ảnh hưởng của Vardenafil và Tadalafil trên bệnh
nhân tim mạch hiện chưa nhiều. Những thuốc này, cũng giống như Sildenafil, có
thể làm tụt huyết áp khi tương tác với nitrat. Tương tác này kéo dài 24 giờ với
Vardenafil và 48 giờ với Tadalafil. Vì thế hai thuốc này cũng chống chỉ định sử
dụng chung với nitrat. Ngoài ra, khi sử dụng Vardenafil hay Tadalafil đồng thời
với nhóm ức chế thụ thể alpha cũng có thể làm tụt huyết áp có triệu chứng.
Vardenafil có thể gây QT kéo dài trong một số trường hợp (trên điện tâm
đồ), nhưng ít có hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, Vardenafil không được khuyến
cáo dùng trên bệnh nhân có hội chứng QT kéo dài bẩm sinh hay đang dùng những
thuốc có khả năng kéo dài QT.
Tác dụng bất lợi với nitrat
Một hạn chế quan trọng của nhóm ức chế men PDE-5 là chống chỉ định với
nhóm nitrat, dù ở hình thức nào, sử dụng dài hạn hay ngắt quãng. Hiệu quả của
nhóm ức chế men PDE-5 trong việc bắt đầu và duy trì sự cương của dương vật
phụ thuộc vào vai trò của chất dãn mạch oxit nitrit ( do GMP vòng làm trung gian
tiết ra). GMP vòng sẽ thoái hóa nhờ men 5 GMP vòng phosphodiesterase làm cho
dương vật xìu xuống, và các thuốc điều trị cương sẽ tác dụng ức chế men này làm
dương vật cương lâu hơn. Nhóm nitrat cũng hoạt động nhờ GMP vòng nên có thể
làm tăng tác dụng của thuốc điều trị cương.
Bệnh nhân dùng cả 2 loại thuốc trên – điều trị cương và nitrat – thì có nguy
cơ tụt huyết áp và ngất cao. Trong một nghiên cứu, người ta thấy rằng thuốc điều
trị cương và nitrat có thể làm giảm huyết áp tâm thu lên đến trên 50mmHg, trong
khi đó nếu chỉ dùng nitrat đơn thuần, huyết áp có thể hạ 25mmHg.
Nếu một người đang sử dụng thuốc điều trị cương bị đau ngực, không nên
dùng nitrat trong 24 giờ đối với Sildenafil và Vardenafil, 48 giờ đối với Tadalafil,
dù ở bất cứ hình thức nào ( xịt, viên, dán hay ngậm dưới lưỡi)
Tác dụng với các thuốc hạ áp khác
Trái với tác dụng bất lợi với nitrat, bệnh nhân đang dùng các thuốc hạ áp
như nhóm ức chế men chuyển, ức chế thụ thể, ức chế kênh canxi, ức chế thụ thể
beta, lợi tiểu, có thể dùng thuốc điều trị cương mà không ảnh hưởng nhiều đến
huyết áp.
Sildenafil có gây nhồi máu cơ tim hay không?
Trong một số báo cáo, người ta có ghi nhận những trường hợp nhồi máu cơ
tim, tử vong sau khi dùng Sildenafil; nhưng cho đến thời điểm này, mối liên hệ
giữa nhồi máu cơ tim và Sildenafil chưa được xác định. Người ta cho rằng, bản
thân quan hệ tình dục cũng có thể gây nhồi máu cơ tim và đa số các bệnh nhân
nhồi máu cơ tim sử dụng đồng thời Sildenafil và nhóm nitrat. Ngoài ra, trong một
số khảo sát, người ta cũng thấy rằng Sildenafil khá an toàn ở những bệnh nhân
bệnh thiếu máu cơ tim nặng không sử dụng nitrat hay ở những bệnh nhân đau thắt
ngực ổn định.
Do những tác động như thế, khi bệnh nhân có bệnh tim mạch, người ta có
thể sử dụng các biện pháp khác để điều trị rối loạn tình dục như liệu pháp thay thế
androgen, tiêm thuốc vào dương vật, hay dùng dụng cụ trợ giúp chân không.
TÓM TẮT VÀ KHUYẾN CÁO
Quan hệ tình dục đồng nghĩa với một stress huyết động học mức độ vừa và
gia tăng nguy cơ nhồi máu, tuy nhiên ở mức độ thấp. Thêm vào đó, chúng ta có
thể điều chỉnh nguy cơ này bằng cách thể dục đều đặn cũng như sử dụng Aspirin
và nhóm ức chế thụ thể beta. Vì thế, những bệnh nhân không thuộc nhóm nguy cơ
cao có thể quan hệ sau khi đã điều chỉnh các yếu tố nguy cơ cũng như có thể bắt
đầu điều trị rối loạn tình dục.
- Các nhà khoa học thuộc hôi Tim mạch Hoa Kỳ đã xác định nhóm ức chế
men phosphodiesterase – 5 an toàn cho những bệnh nhân đau thắt ngực ổn định
không dùng nitrat.
- Không có sự khác biệt đáng kể giữa các thuốc trong nhóm điều trị rối loạn
cương ngoại trừ Tadalafil tác dụng kéo dài hơn. Mặc dù, không có ghi nhận nào
chứng tỏ Tadalafil hay Vardenafil có ảnh hưởng đến tim mạch nhiều hơn so với
Sildenafil, tuy nhiên, do chưa có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của các thuốc
này, cho nên chúng tôi vẫn khuyến cáo sử dụng Sildenafil để điều trị rối loạn
cương ở bệnh nhân tim mạch.
- Lưu ý nhóm thuốc này không sử dụng chung với nhóm nitrat hay nhóm ức
chế thụ thể alpha.
- Hội tim mạch Hoa Kỳ cũng nhắc nhở các bác sĩ lưu ý đến những ảnh
hưởng của nhóm thuốc điều trị rối loạn cương trên những nhóm bệnh nhân sau:
+ Bệnh nhân đang bị thiếu máu cơ tim tiến triển, thậm chí ở những bệnh
nhân không dùng nitrat
+ Bệnh nhân suy tim huyết áp thấp, hay có thể tích tuần hoàn thấp
+ Bệnh nhân đang sử dụng nhiều thuốc hạ huyết áp phối hợp
+ Bệnh nhân đang sử dụng các thuốc kéo dài thời gian bán hủy của nhóm
ức chế men PDE-5 làm kéo dài tác dụng của thuốc, hoặc trái lại các thuốc như
Rifampin, Phenytoin có thể làm giảm hiệu quả của thuốc.
BS. TRẦN NGUYỄN AN HUY – BV Hoàn Mỹ Sài Gòn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- benh_tim_mach_va_moi_lien_quan_den_hoat_dong_tinh_duc_ky_3_5188.pdf