Mặc dù nguy cơ của nhồi máu cơ tim hay bất cứ một biến cố tim mạch khác
như đau ngực, rối loạn nhịp hay hen tim kịch phát thì thấp nhưng vẫn có một nguy
cơ cao với những người có nguy cơ tim mạch cao hay những người đã có bệnh
sẵn. Để làm giảm nguy cơ, người ta đề ra một số biện pháp:
- Nhóm nguy cơ thấp: đại đa số bệnh nhân thuộc nhóm này, bao gồm
những bệnh nhân:
Không triệu chứng và ít hơn ba yếu tố nguy cơ tim mạch
(không kể giới tính)
Tăng huyết áp đã kiểm soát
Đau ngực ổn định nhẹ ở những bệnh nhân đang điều trị rối
loạn cương bằng nhóm ức chế men phophodiesterase-5.
Đã tái thông mạch vành thành công
Những bệnh nhân nhồi máu cơ tim 6-8 tuần, hiện không có
triệu chứng hay không có thiếu máu cơ tim trên test gắng sức, những bệnh
nhân đã được tái thông và không có thiếu máu cơ tim thì khoảng 3-4 tuần
sau nhồi máu có thể quan hệ tình dục.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bệnh tim mạch và mối liên quan đến hoạt động tình dục (Kỳ 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh tim mạch và mối liên quan
đến hoạt động tình dục
(Kỳ 2)
6. Nguy cơ của quan hệ tình dục
Mặc dù nguy cơ của nhồi máu cơ tim hay bất cứ một biến cố tim mạch khác
như đau ngực, rối loạn nhịp hay hen tim kịch phát thì thấp nhưng vẫn có một nguy
cơ cao với những người có nguy cơ tim mạch cao hay những người đã có bệnh
sẵn. Để làm giảm nguy cơ, người ta đề ra một số biện pháp:
- Nhóm nguy cơ thấp: đại đa số bệnh nhân thuộc nhóm này, bao gồm
những bệnh nhân:
Không triệu chứng và ít hơn ba yếu tố nguy cơ tim mạch
(không kể giới tính)
Tăng huyết áp đã kiểm soát
Đau ngực ổn định nhẹ ở những bệnh nhân đang điều trị rối
loạn cương bằng nhóm ức chế men phophodiesterase-5.
Đã tái thông mạch vành thành công
Những bệnh nhân nhồi máu cơ tim 6-8 tuần, hiện không có
triệu chứng hay không có thiếu máu cơ tim trên test gắng sức, những bệnh
nhân đã được tái thông và không có thiếu máu cơ tim thì khoảng 3-4 tuần
sau nhồi máu có thể quan hệ tình dục.
Bệnh van tim nhẹ
Bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ thấp này thì quan hệ tình dục tương đối an
toàn cũng như điều trị rối loạn cương. Chưa có nhiều nghiên cứu về bệnh nhân có
viêm màng ngoài tim, sụp van 2 lá, rung nhĩ…
- Nhóm nguy cơ trung bình: là những bệnh nhân có:
Không triệu chứng và có từ 3 yếu tố nguy cơ trở lên (ngoại
trừ giới tính), thói quen ít vận động cũng được xem là một yếu tố nguy cơ
Đau ngực ổn định mức độ trung bình
Những bệnh nhân nhồi máu cơ tim từ 2-6 tuần, không triệu
chứng, không được tái thông và không có thiếu máu cơ tim trên test gắng
sức
Bệnh nhân có phân suất tống máu của tim (EF) <40%, hay
bệnh nhân có suy tim độ II theo phân loại NYHA
Bệnh nhân có bệnh do xơ vữa động mạch nhưng không do
tim, như bệnh mạch máu ngoại biên, thiếu máu não thoáng qua hay đột quỵ
Bệnh nhân ở nhóm này cần phải được làm các xét nghiệm để
đánh giá thêm, đặc biệt ở những bệnh nhân có thói quen ít vận động.
Những xét nghiệm này thường giúp thầy thuốc phân tầng bệnh nhân vào
nhóm nguy cơ cao hay nguy cơ thấp
- Nhóm nguy cơ cao: là những bệnh nhân có:
Đau thắt ngực không ổn định hay đau thắt ngực kháng trị
Tăng huyết áp không kiểm soát
Suy tim giai đoạn III,IV theo phân loại NYHA
Nhồi máu cơ tim trong 2 tuần gần đây
Rối loạn nhịp nguy cơ cao
Bệnh cơ tim tắc nghẽn
Bệnh van tim mức độ trung bình, nhất là hẹp van động mạch
chủ
Bệnh nhân nguy cơ cao phải được điều trị thật ổn định mới có thể quan hệ
tình dục. Cần lưu ý những bệnh nhân đang sử dụng nhóm thuốc nitrat thì có chống
chỉ định sử dụng Sildenafil.
7. Rối loạn tình dục sau nhồi máu cơ tim
Rối loạn tình dục sau thường phổ biến ở bệnh nhân tim mạch do sự e ngại
nguy cơ nhồi máu cơ tim, do tác dụng phụ của thuốc (lợi tiểu, ức chế thụ thể beta,
thuốc hạ mỡ), các bệnh lí đi kèm như rối loạn mỡ trong máu, tăng huyết áp, đái
tháo đường, thuốc lá…và có thể là yếu tố tâm lí. Rối loạn tình dục sau nhồi máu
(thường là rối loạn cương ở đàn ông) chiếm khoảng ½ đến ¾ bệnh nhân sau nhồi
máu cơ tim, nếu bệnh nhân được mổ bắc cầu cũng có thể gặp với tỉ lệ thấp hơn.
Sau nhồi máu cơ tim, cả bệnh nhân nam và nữ đều giảm quan hệ tình dục cũng
như giảm đi sự thỏa mãn khi quan hệ; có thể là do những e ngại về tâm lí lo sợ từ
phía bệnh nhân hay của bạn tình.
Nhưng thường các thầy thuốc ít chú ý đến vấn đề này, ít thảo luận vấn đề
với bệnh nhân và bạn tình của họ. Vì thế, với bệnh nhân cần được hướng dẫn ở các
trung tâm phục hồi chức năng tim mạch, có cả các liệu pháp tâm lí, và dĩ nhiên là
phải được lượng giá nhóm nguy cơ để cải thiện chức năng tình dục của họ.
8. Điều trị rối loạn tình dục
Việc điều trị rối loạn tình dục ở những bệnh nhân tim mạch dựa trên phân
loại nhóm nguy cơ đã nói ở trên và thông thường, rối loạn tình dục chủ yếu là rối
loạn cương ở nam giới.
- Nhóm nguy cơ thấp: có thể an toàn để quan hệ tình dục, hoặc có thể bắt
đầu điều trị rối loạn tình dục.
- Nhóm nguy cơ trung bình: cần phải đánh giá thêm để phân tầng vào nhóm
nguy cơ cao hay thấp, đặc biệt chú ý ở những người có thói quen ít vận động.
- Nhóm nguy cơ cao: cần phải điều trị ổn định trước khi bắt đầu quan hệ
tình dục hoặc điều trị rối loạn tình dục.
Một phần quan trọng của việc điều trị rối loạn tình dục là phải điều trị tất cả
những tác nhân bất lợi. Ở bệnh nhân tim mạch, điều này bao gồm sự bảo đảm an
toàn khi quan hệ cũng như những tác dụng phụ của thuốc cho bệnh nhân, đó chính
là khía cạnh tâm lí của bệnh nhân.
Trong số các thuốc tim mạch có thể gây tác dụng phụ có lợi tiểu nhóm
thiazides, ức chế thụ thể beta, các thuốc giảm mỡ trong máu. Một vấn đề cần lưu ý
là, nhóm thuốc trị rối loạn cương (ức chế men phosphodiesterase-5) không nên sử
dụng chung với nhóm nitrat dù ở bất kì hình thức nào.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- benh_tim_mach_va_moi_lien_quan_den_hoat_dong_tinh_duc_ky_2.pdf