Bệnh động mạch vành là căn nguyên gây tử vong số 1
trong số các bệnh lý tim mạch; bệnh có xu hướng ngày
càng gia tăng mạnh mẽ ở Việt Nam. Sự hiểu biết cần
thiết về bệnh sẽ giúp cho việc phát hiện bệnh được
sớm, phòng bệnh và điều trị có hiệu quả hơn.
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Bệnh động mạch vành có thể phòng ngừa được, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh động mạch vành có thể phòng
ngừa được
Bệnh động mạch vành là căn nguyên gây tử vong số 1
trong số các bệnh lý tim mạch; bệnh có xu hướng ngày
càng gia tăng mạnh mẽ ở Việt Nam. Sự hiểu biết cần
thiết về bệnh sẽ giúp cho việc phát hiện bệnh được
sớm, phòng bệnh và điều trị có hiệu quả hơn.
Bệnh động mạch vành là gì?
Cơ tim cũng như các cơ quan khác trong
cơ thể, cần được cung cấp đầy đủ máu
giàu ôxy để hoạt động khi nghỉ cũng
như khi gắng sức. Máu được cung cấp
cho cơ tim thông qua hệ thống động
mạch vành. Các nhánh của động mạch
vành xuất phát từ động mạch chủ. Hệ
động mạch vành gồm có động mạch
vành phải và động mạch vành trái. Các
động mạch vành chia thành các nhánh nhỏ dần tới nuôi
dưỡng từng vùng của cơ tim. Bệnh động mạch vành xuất
hiện khi một hoặc nhiều nhánh của động mạch vành bị
hẹp hay bị tắc do các nguyên nhân khác nhau, thông
thường là do mảng vữa xơ động mạch vành.
Dấu hiệu nào để nhận biết?
Hình ảnh mạch
vành tim.
Đau thắt ngực là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất để
nhận biết bệnh động mạch vành. Đau có cảm giác bó chặt,
thắt nghẹt, đè ép hay đôi khi chỉ là cảm giác có cái gì đó
khó chịu trong lồng ngực. Vị trí đau hay gặp là sau xương
ức, giữa ngực hoặc vùng tim. Đau có thể tại chỗ hoặc lan
lên cổ, hàm, vai hay cánh tay bên trái, ít trường hợp lan ra
sau lưng hay vùng cột sống. Cơn đau thường rất ngắn, chỉ
10-30 giây hay một vài phút. Nếu cơn đau kéo dài hơn 15
phút là có khả năng đã bị nhồi máu cơ tim.
Đau thắt ngực được chia làm hai loại. Đó là đau thắt ngực
ổn định và hội chứng mạch vành cấp. Đau thắt ngực ổn
định là do mảng vữa xơ gây hẹp lòng động mạch vành,
xuất hiện lặp đi lặp lại khi người bệnh gắng sức đạt đến
một mức độ nào đó hay trong cùng một hoàn cảnh. Hội
chứng mạch vành cấp gồm có đau thắt ngực không ổn
định và nhồi máu cơ tim.
Hội chứng vành cấp khi đau thắt ngực xảy ra bất kỳ, cả
lúc nghỉ ngơi hay khi gắng sức nhưng không đỡ khi
ngừng gắng sức. Cơn đau thắt ngực không ổn định sẽ tự
hết hoặc sau khi dùng các thuốc nitroglycerin và có nguy
cơ dễ chuyển thành nhồi máu cơ tim. Nhồi máu cơ tim
xảy ra khi một nhánh của động mạch vành bị tắc hoàn
toàn với biểu hiện của cơn đau thắt ngực xuất hiện khi
nghỉ, đau thường dữ dội, kéo dài và không hết sau khi
dùng nitroglycerin. Đau thắt ngực không ổn định rất nguy
hiểm nếu không được xử trí kịp thời vì dễ chuyển thành
nhồi máu cơ tim. Dấu hiệu chủ yếu để phân biệt giữa đau
thắt ngực ổn định và không ổn định là hoàn cảnh xảy ra
đau thắt ngực (lúc nghỉ ngơi hay khi gắng sức...).
Khi có dấu hiệu đau thắt ngực cần dừng ngay lập tức mọi
gắng sức, dùng thuốc nitroglycerin dạng ngậm hoặc xịt
dưới lưỡi và đến bệnh viện càng sớm càng tốt để có thể
được chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.
Chẩn đoán xác định bao gồm những
xét nghiệm gì?
Khi có dấu hiệu đau thắt ngực, bác sĩ
sẽ chỉ định tiến hành một số thăm dò
bổ sung cần thiết để xem có phải bị
bệnh mạch vành hay không. Các xét
nghiệm được chia ra 2 loại: không
xâm nhập và có xâm nhập.
Các xét nghiệm không xâm nhập gồm
có: các thăm dò về điện tâm đồ, gồm: điện tâm đồ lúc
nghỉ; điện tâm đồ gắng sức (hay còn gọi là nghiệm pháp
gắng sức); điện tâm đồ ghi liên tục 24 giờ (thường gọi là
Holter điện tim). Các thăm dò về siêu âm, gồm: siêu âm
Doppler tim và siêu âm tim gắng sức. Xạ hình tưới máu
cơ tim. Chụp cắt lớp động mạch vành tốc độ cao
(Multislices CT scanner).
Xét nghiệm xâm nhập: chụp động mạch vành, đây là xét
nghiệm giúp bác sĩ đánh giá được chính xác hình ảnh
Mạch vành bị hẹp
sẽ gây nên cơn
đau thắt ngực.
động mạch vành; nếu có tổn thương thì sẽ đánh giá được
vị trí, kích thước và mức độ tổn thương để có biện pháp
điều trị thích hợp.
Điều trị bệnh động mạch vành như thế nào?
Có hai phương pháp điều trị
Điều trị nội khoa: là phương pháp điều trị bằng thuốc; có
thể dùng một loại hay phối hợp nhiều thứ thuốc với nhau
như: các thuốc chống kết vón tiểu cầu (aspirin, ticlide,
plavix); các thuốc ức chế thụ thể beta (như tenormine,
betaloc...); các thuốc chẹn kênh calci (amlordipin,
tildiazem...); các thuốc hạ cholesterol máu (nhóm statin
như zocor, crestor, lipitor... hay nhóm fibrat như
lipanthyl, lopid...). Và một điều rất quan trọng là sửa chữa
các yếu tố nguy cơ tim mạch, đặc biệt là bỏ thuốc lá; điều
trị tốt đái tháo đường và tăng huyết áp...
Điều trị can thiệp, bao gồm: Can thiệp động mạch vành
qua da: là phương pháp dùng các dụng cụ chuyên biệt để
nong đoạn động mạch vành bị hẹp, làm tái lưu thông trở
lại bình thường đoạn động mạch vành bị hẹp mà không
phải mổ. Mổ bắc cầu nối: dùng một đoạn động hoặc tĩnh
mạch bắc cầu từ nguồn cấp máu qua vị trí động mạch
vành tổn thương nối với đoạn động mạch vành phía sau
đoạn hẹp; như vậy máu sẽ được cung cấp cho vùng cơ tim
bị thiếu máu thông qua một cầu nối mới.
Làm gì để phòng ngừa bệnh động mạch vành?
Phải thay đổi các thói quen hay lối sống như: Bỏ thuốc lá
(nếu hút thuốc). Tập thể dục thường xuyên và thích hợp
(tốt nhất là trên 1 giờ mỗi ngày). Tránh các stress (căng
thẳng trong cuộc sống, công việc). Ăn giảm muối, không
ăn mỡ và các phủ tạng động vật (đặc biệt là lòng hay dạ
dày lợn...), hạn chế ăn nhiều đồ ngọt. Thay đổi được
những thói quen không tốt, bạn sẽ phòng ngừa và điều trị
bệnh hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó cần điều trị tốt một số bệnh lý có liên quan
trực tiếp đến bệnh động mạch vành như: đái tháo đường,
tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và béo phì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- benh_dong_mach_vanh_co_the_phong_ngua_duoc_9.pdf