Bệnh da trong bệnh nội tiết

1.1.Căn nguyên và Sinh bệnh học: tăng tiết GH (growth hormone) gây ra

bệnh to cực. Hoạt động quá mức gene điều hòa GH gây ra nhiều tác động trên

chuyển hóa, tăng trưởng và biệt hóa tế bào, gây ra sự tiết quá nhiều Somatidin C

(SM), IGF-1 (insulin-like growth factor 1) dẫn dến sự tăng trưởng bất thường các

tế bào trong mô. Da bệnh sẽ dầy lên do tíchtụ glycosaminoglycans.

1.2.Các bệnh cảnh Da:

-Phù nhão trên da, dày các nếp da (trán, nếp mũi-miệng, môi, mi mắt) là

hậu quả của gia tăng glycosaminoglycan và collagen trong bì. Giữ nước cũng tăng

do tăng các hợp chất ưa nước trong chất nền của bì. Thượng bì và phần phụ của da

bắt đầu tăng sản (lỗ nang lông dãn ra, dày và cứng móng, mụn trứng cá, rậm lông).

Nhiều mụn cơm có cuống (acrochordon, skin tag) phát triển. Dày sừng các tuyến

bã có thể xảy ra trong một giai đoạn ngắn (dấu hiệu Leser-Trelart). Cũng thường

thấy bệnh gai đen phát triển tại các nếp da; chứng da đầu uốn khúc (cutis verticis

gyrata).

-Xương và sụn to (đầu, bàn tay, bàn chân), mũi to và dài, tai rộng ra, xương

gò má, xương hàm dưới và cằm nhô ra.

-Một số bệnh lý da có tần suất cao trong bệnh to cực gồm: viêm da mủ hoại

thư (pyoderma gangrenosum), vẩy nến. Sự tiết mồ hôi khi nóng và stress thể chất

cũng giảm. Tăng sắc tố cũng xảy ra như là hậu quả của tăng tiết MSH.

-Về phản ứng bất thường của mạch máu ở da, có thiếu máu do phản ứng gia

tăng dòng chảy máu thấp hơn bình thường, sờ da thấy lạnh do co thắt các mạch

máu lớn.

pdf5 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bệnh da trong bệnh nội tiết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỆNH DA TRONG BỆNH NỘI TIẾT (CUTANEOUS MANIFESTATIONS OF ENDOCRINE DISEASES) (Kỳ 2) ooooOOOOoooo II-HORMONE THÙY TRƯỚC TUYẾN YÊN: 1-Bệnh To cực (acromegaly): 1.1.Căn nguyên và Sinh bệnh học: tăng tiết GH (growth hormone) gây ra bệnh to cực. Hoạt động quá mức gene điều hòa GH gây ra nhiều tác động trên chuyển hóa, tăng trưởng và biệt hóa tế bào, gây ra sự tiết quá nhiều Somatidin C (SM), IGF-1 (insulin-like growth factor 1) dẫn dến sự tăng trưởng bất thường các tế bào trong mô. Da bệnh sẽ dầy lên do tích tụ glycosaminoglycans. 1.2.Các bệnh cảnh Da: -Phù nhão trên da, dày các nếp da (trán, nếp mũi-miệng, môi, mi mắt) là hậu quả của gia tăng glycosaminoglycan và collagen trong bì. Giữ nước cũng tăng do tăng các hợp chất ưa nước trong chất nền của bì. Thượng bì và phần phụ của da bắt đầu tăng sản (lỗ nang lông dãn ra, dày và cứng móng, mụn trứng cá, rậm lông). Nhiều mụn cơm có cuống (acrochordon, skin tag) phát triển. Dày sừng các tuyến bã có thể xảy ra trong một giai đoạn ngắn (dấu hiệu Leser-Trelart). Cũng thường thấy bệnh gai đen phát triển tại các nếp da; chứng da đầu uốn khúc (cutis verticis gyrata). -Xương và sụn to (đầu, bàn tay, bàn chân), mũi to và dài, tai rộng ra, xương gò má, xương hàm dưới và cằm nhô ra. -Một số bệnh lý da có tần suất cao trong bệnh to cực gồm: viêm da mủ hoại thư (pyoderma gangrenosum), vẩy nến. Sự tiết mồ hôi khi nóng và stress thể chất cũng giảm. Tăng sắc tố cũng xảy ra như là hậu quả của tăng tiết MSH. -Về phản ứng bất thường của mạch máu ở da, có thiếu máu do phản ứng gia tăng dòng chảy máu thấp hơn bình thường, sờ da thấy lạnh do co thắt các mạch máu lớn. 1.3. Mô học: nhuộm HE thấy thượng bì mỏng, bì phù nề do sự bong tách các sợi collagen dẫn đến các bó collagen thô ráp (các sợi này vẫn bình thường cả về số lượng lẫn chất lượng). Tích tụ mucin trong bì gồm có glycosaminoglycan và hyaluronic acid. Tại chất nền ngoại bào ở bì, có sự xâm lấn của các tế bào đuôi gai đáp ứng (+) với yếu tố XIIIa; yếu tố này là một men chuyển glutamin (transglutaminase) ảnh hưởng đến sự tích tụ và di chuyển của collagen, sắp xếp khung tế bào. Bó collagen thô ráp và tích tụ glycosaminoglycan acid hóa được tìm thấy trong mọi trường hợp, tế bào đuôi gai ở bì có số lượng giảm. 4.Điều trị: không có điều trị đặc hiệu các tổn thương da, tổn thương da có thể cải thiện (nhưng không hoàn toàn) khi điều trị tăng tiết GH bằng phẫu thuật can thiệp hoặc Xạ trị các u tuyến. Phù nề mô mềm và thô ráp ở mặt được cải thiện khi điều trị làm giảm GH. Điều trị bằng chất tương tự Somatotatin tác dụng kéo dài (như Octreotide) sẽ có cải thiện các biểu hiện ở mặt sau 0,5-3 tháng, da bắt đầu mềm ra, mỏng lại; phù nề bàn tay cũng giảm sau 0,5-2 tháng. Khoảng ½ bệnh nhân giảm kích thước của bàn chân, nhưng không giảm vòng nhẫn của ngón. 2- Thiếu GH và Suy tuyến yên toàn thể (GH deficiency and Panhypopituitarism): -Thiếu GH xảy ra ở trẻ em và người lớn, di truyền hoặc mắc phải. Ở trẻ em là một bất thường tầm vóc con người; biểu hiện ở người lớn bao gồm giảm khối lượng cơ thể, giảm sức mạnh và giảm thể lực một phần, giảm tiết mồ hôi, giảm sức sống. -Suy tuyến yên toàn thể là tình trạng mất hoàn toàn chức năng tuyến yên (FSH, LH, ACTH, kể cả GH), người bệnh có các triệu chứng của suy giảm hệ thống nội tiết, các biểu hiện da bao gồm nhiều nếp nhăn trên da, giảm sắc tố da, da teo lại, kém tiết chất bã, tróc vẩy, mất lông ở vùng mu và hố nách rồi toàn thân. Tóc khô, mịn; móng dòn, sậm màu, mọc chậm. 3- Các rối loạn sắc tố (pigmentation disorders): 3.1.Căn nguyên và Sinh bệnh học: sắc tố da là kết quả của 2 thành tố: tổng hợp melanin từ các hắc tố bào và sự di chuyển của melanosome đến quanh các tế bào sừng. -Hoạt động và hình dạng của các hắc tố bào được thúc đẩy chủ yếu bởi α- MSH (alpha melanocyte stimulating hormone). α-MSH là một phần của protein POMC, sản xuất từ phần nhánh của protein toàn phần (một trong những vị trí sản xuất chúng là tuyến yên). Hắc tố bào, tế bào sừng, tế bào nội mô, nguyên bào sợi sản xuất protein POMC. Sản xuất protein POMC gia tăng bởi các cytokine tiền viêm, tiếp xúc nhiều với tia UV, các bệnh da do viêm và bướu có nguồn gốc từ hắc tố bào. -Hắc tố bào có các thụ thể với estrogen (ERα và Erβ) và steroids giới tính, làm đẩy nhanh quá trình dịch các gene mã hóa các men sinh hắc tố trong các hắc tố bào ở người bình thường. -Hắc tố bào còn đáp ứng với bức xạ tia UV, endothelin, GH, cytokine và các yếu tố khác. Bức xạ tia UV kích thích sản xuất endothelin-1 (ET-1) và POMC bởi các tế bào sừng và cũng kích thích chức năng của hắc tố bào. -Hắc tố bào cũng có các thụ thể melanocortin-1 (MC1-R) được hoạt hóa bởi α-MSH ligand. Tiếp xúc nhiều với tia UV gây mất điều hòa tác động của MC1-R. Các hắc tố bào với các gene thụ thể không có chức năng MC1 nhận thấy gia tăng nhạy cảm với hiệu ứng gây độc tế bào từ bức xạ tia UV, làm gia tăng quá trình sinh bướu. -Các hiệu ứng sinh học của α-MSH là hoạt tính sinh sắc tố, gây nên tăng sằc tố ở da, tăng tác động miễn dịch của cytokine, điều hòa tác động bài tiết của các tuyến bã, điều hòa chết theo chương trình của các tế bào sừng, đẩy mạnh sự sống sót các tế bào hắc tố ở người do ức chế quá trình chết theo chương trình do tia UV độc lập với sự tổng hợp melanin.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbenh_da_trong_benh_noi_tiet_doc_2.pdf
Tài liệu liên quan