Cổ tử cung là phần nối liền tử cung với âm đạo, còn thân tử cung là nơi phát triển và chứa
đựng bào thai. Cổ tử cung có dạng như miệng cá, đường kính từ 2-4cm ở người phụ nữ chưa
sinhđẻ hay đẻnhiều. Nếu bộc lộbằngmỏ vịt,cổ tử cungcómàuhồngnhạt và trungtâmlà lỗ
cổtử cung.
-Lỗ cổ tử cung chia tử cung làm 2 phần: phần trên âm đạo và phần nằm trong âm đạo và hai
phần đó được xem như cổ trong và cổ ngoài tử cung. Cổ ngoài được lợp bởi biểu mô lát tầng
không sừng hóa, còn cổtrong lợpbởibiểu môtrụđơn.
- Biểu mô lát tầng gồm nhiều lớp: lớp đáy gồm các tế bào hình khối vuông, nhân bầu dục và
cótrụcvuông góc với màng đáy.Lớp cận đáyvới các tếbào bầu dục hoặcđadiện,giữacáctế
bào có các cầu nối liên bào. Lớp vảy (Malpighi) gồm 6-12 hàng tế bào sáng, bào tương nhiều
vàcầu nối liênbàorõ rệt. Lớpbề mặtgồmcáctếbào dẹt,nhân vón nhỏ.
- Biểu mô trụ đơn: gồm một hàng tế bào hình trụ cao, nhân nằm cực đáy và bào tương chứa
nhiềuchấtnhầy.
11 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Bệnh cổ tử cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100
BỆNH CỔ TỬ CUNG
Mục tiêu học tập
1- Trình bày được vị trí giải phẫu và cấu trúc mô học bình thường của cổ tử cung.
2- Mô tả và phân tích được 4 loại viêm cổ tử cung.
3- Định nghĩa và mô tả được loạn sản, ung thư biểu mô tại chỗ và ung thư biểu mô xâm
nhập cổ tử cung.
I. NHẮC LẠI VỀ GIẢI PHẪU VÀ CẤU TRÚC MÔ HỌC CỔ TỬ CUNG
- Cổ tử cung là phần nối liền tử cung với âm đạo, còn thân tử cung là nơi phát triển và chứa
đựng bào thai. Cổ tử cung có dạng như miệng cá, đường kính từ 2-4cm ở người phụ nữ chưa
sinh đẻ hay đẻ nhiều. Nếu bộc lộ bằng mỏ vịt, cổ tử cung có màu hồng nhạt và trung tâm là lỗ
cổ tử cung.
-Lỗ cổ tử cung chia tử cung làm 2 phần: phần trên âm đạo và phần nằm trong âm đạo và hai
phần đó được xem như cổ trong và cổ ngoài tử cung. Cổ ngoài được lợp bởi biểu mô lát tầng
không sừng hóa, còn cổ trong lợp bởi biểu mô trụ đơn.
- Biểu mô lát tầng gồm nhiều lớp: lớp đáy gồm các tế bào hình khối vuông, nhân bầu dục và
có trục vuông góc với màng đáy. Lớp cận đáy với các tế bào bầu dục hoặc đa diện, giữa các tế
bào có các cầu nối liên bào. Lớp vảy (Malpighi) gồm 6-12 hàng tế bào sáng, bào tương nhiều
và cầu nối liên bào rõ rệt. Lớp bề mặt gồm các tế bào dẹt, nhân vón nhỏ.
- Biểu mô trụ đơn: gồm một hàng tế bào hình trụ cao, nhân nằm cực đáy và bào tương chứa
nhiều chất nhầy.
II. VIÊM CỔ TỬ CUNG
1. Viêm cổ tử cung không do nhiễm trùng
Hầu hết các viêm xảy ra do tác nhân cơ học hay hóa học và gây một phản ứng viêm không
đặc hiệu. Các tác nhân có thể là những chất trong thuốc rửa âm đạo hay các chất lạ như vòng
nâng tử cung, vòng tránh thai.
- Viêm cổ tử cung cấp: có xung huyết, mô đệm bên dưới phù nề và xâm nhập nhiều BCĐN.
Về lâm sàng, cổ tử cung sưng đỏ.
- Viêm cổ tử cung mạn: có xâm nhập nhiều lympho bào ở mô đệm kèm tương bào, mô bào,
tăng sinh tổ chức xơ, có khi tạo nang lympho.
2. Viêm cổ tử cung do nhiễm khuẩn
Viêm cổ tử cung do nhiễm khuẩn bao gồm: liên cầu nhóm B, lậu cầu, xoắn khuẩn giang mai,
Chlamydia Trachomatis, Gardnerella vaginalis, Actinomyces, trực khuẩn lao, nhiễm virus, do
nấm (Aspergillus, Candida Albicans), do ký sinh trùng (Amíp, Trichomonas vaginalis)...
2.1. Viêm cổ tử cung do vi khuẩn
Đây là nguyên nhân phổ biến thường gặp, xảy ra trên một cổ tử cung teo đét lớp biểu mô,
chấn thương, do thay đổi độ pH. Viêm do vi khuẩn thường đi kèm với viêm nội mạc thân tử
cung, viêm vòi trứng và viêm phúc mạc qua nhau và thai nhi.
101
- Viêm do Chlamydia trachomatis: Bệnh phổ biến thường gặp ở phụ nữ phương Tây, hình ảnh
vi thể biểu hiện là các thể vùi bên trong bào tương của các tế bào biểu mô và thường tấn công
vào lớp biểu mô trụ ở cổ trong. Do vậy, âm đạo ít khi bị viêm nhưng lại gây viêm niệu đạo và
trực tràng, huyết trắng có dạng như mủ màu vàng xanh có kèm viêm nội mạc thân tử cung,
vòi trứng, do vậy dễ gây tắc nghẽn vòi trứng và gây vô sinh.
Hình 1-2: Hình ảnh đại thể và vi thể của viêm cổ tử cung
- Viêm do actinomyces: Bệnh thường gặp ở phụ nữ đặt vòng tránh thai hoặc nạo thai. Tổn
thương viêm có dạng hạt lấm chấm màu vàng, dễ gây xơ hóa cổ tử cung.
- Viêm do trực khuẩn lao: Bệnh thường thứ phát sau lao vòi trứng, lao nội mạc thân tử cung
và lao phổi. Biểu hiện có khi bình thường hoặc tổn thương sùi giống như ung thư thể xâm
nhập. Hình ảnh vi thể là các nang lao với trung tâm nang là tổ chức hoại tử dạng bã đậu, xung
quanh là các tế bào dạng bán liên (thoái bào), các tế bào khổng lồ nhiều nhân (đại bào
langhans) và bao quanh nang là các lympho bào và tế bào xơ.
Hình 3-4: Viêm do Gardnerella vaginalis
2.2. Viêm cổ tử cung do nấm
Viêm cổ tử cung do nấm phổ biến gặp là loại Candida Albicans, bệnh thường đi kèm với
viêm âm đạo và âm hộ, gặp ở những phụ nữ dùng nhiều kháng sinh kéo dài, bệnh đái đường.
Khí hư có màng trắng và rất ngứa, phiến đồ âm đạo thường thấy các sợi tơ nấm và men nấm.
102
Hình 5: Bào tử nấm Candida Hình 6: Sợi nấm Candida
Hình 7-8: Sợi nấm Leptothrix (dạng tóc rối)
2.3. Viêm cổ tử cung do ký sinh trùng
Phổ biến là do Trichomonas vaginalis, dịch khí hư thường có nhiều bọt trắng như xà phòng
hoặc màu vàng nhạt kèm ngứa. Soi phiến đồ có thể gặp Trichomonas có hình dạng bầu dục
hoặc hình quả lê, kích thước bằng tế bào cận đáy hoặc có kích thước bằng bạch cầu đa nhân
và ít khi thấy còn các vòi của loại ký sinh trùng này.
Bệnh thường được chẩn đoán chủ yếu dựa vào soi tươi để phát hiện Trichomonas vaginalis.
Viêm do Amíp rất hiếm gặp.
2.4. Viêm cổ tử cung do virus
Trái ngược với viêm do vi trùng, loại virus thường tấn công vào biểu mô lát tầng ở cổ ngoài
cổ tử cung và thường ít có biểu hiện lâm sàng. Các tác nhân virus hay gặp là HPV (Human
papilloma virus). HSV (Herpes simplex virus) gặp chủ yếu ở các phụ nữ trẻ, lây lan qua
đường tình dục, biểu hiện bởi các ổ loét nông rất đau, đau trong lúc quan hệ tình dục, lúc đi
tiểu, dịch khí hư lỏng như nước. Trên phiến đồ có các tế bào lớn nhiều nhân chứa các thể vùi,
trong lớp biểu mô lát tầng có các bóng nước.
103
Nhiễm virus có thể gây sẩy thai tự nhiên, dị dạng thai nhi hoặc có vai trò trong bệnh sinh ung
thư cổ tử cung hoặc gây tân sản nội biểu mô vảy cổ tử cung (Cervical intraepithelial
neoplasm, C.I.N).
Nhiễm HPV thường có các tế bào bóng (tế bào rỗng) nằm ở lớp trung gian và gần bề mặt của
biểu mô lát tầng. Tế bào to, bào tương không đều, quanh nhân có khoảng sáng.
Tế bào rỗng là hậu quả của virus xâm nhập vào trong tế bào và làm chết tế bào. Thường thấy
ở 1/3 trên cùng của lớp biểu mô lát tầng, các tế bào biểu mô có khi quá sản mạnh tạo thành
nhú.
III .UNG THƯ CỔ TỬ CUNG
1. Định nghĩa
Ung thư cổ tử cung là sự biến đổi ác tính của các lớp biểu mô cổ tử cung. 95% ung thư xuất
phát từ lớp biểu mô lát tầng.
- Ung thư cổ tử cung là bệnh rất phổ biến, chiếm hàng đầu trong các loại ung thư của đường
sinh dục nữ.
- Tần suất tăng cao của bệnh có liên quan rõ rệt đến các yếu tố như quan hệ tình dục sớm,
giao hợp với nhiều người, sinh đẻ nhiều, phụ nữ có hoàn cảnh kinh tế xã hội thấp, nhiễm virus
đường sinh dục.
2. Tổn thương giải phẫu bệnh
2.1. Loạn sản (dysplasia)
Là tổn thương biểu mô vảy cổ tử cung với hình ảnh tăng sinh các tế bào biểu mô non không
trưởng thành có thể kèm dị dạng nhân, các tế bào mất định hướng và mất sự sắp xếp lớp của
chúng. Về vi thể, loạn sản có các đặc điểm sau:
- Tăng sinh biểu mô với các tế bào non, mất cực tính, các tế bào đáy, cận đáy chiếm đến 1/3
bề dày hoặc gần hết bề dày của biểu mô.
- Nhân bất thường, to nhỏ không đều, tỉ lệ nhân trên bào tương tăng, nhiễm sắc chất tăng
đậm.
- Nhiều hình ảnh nhân chia.
Hình 9: CIN 1 Hình 10: CIN 2
Tùy theo chiều cao của các lớp tế bào non chưa trưởng thành, người ta chia làm 3 loại loạn
sản:
104
+ CIN 1: tăng sản tế bào đáy, cận đáy không quá 1/3 bề dày của biểu mô.
+ CIN 2: tăng sản tế bào đáy, cận đáy ≥ 2/3 bề dày
+ CIN 3: các tế bào đáy, cận đáy chiếm gần hết bề dày của biểu mô, trên bề mặt chỉ còn vài
lớp tế bào trưởng thành.
Tuổi hay gặp của loạn sản là 20-35 tuổi và chẩn đoán dựa vào tế bào phiến đồ âm đạo và sinh
thiết bấm cổ tử cung.
Điều trị với CIN 2,3 bằng khoét chóp cổ tử cung.
Một nghiên cứu cho thấy nếu không điều trị thì 50% CIN 1 chuyển thành CIN 3, thoái triển
chỉ xảy ra với CIN 1, khoảng 70% CIN 3 phát triển thành ung thư tại chỗ và ung thư xâm
nhập.
2.2. Ung thư biểu mô tại chỗ (in situ carcinoma)
Ung thư cổ tử cung tại chỗ là sự biến đổi ác tính của các tế bào biểu mô nhưng vẫn chỉ khu
trú trong lớp biểu mô lát tầng còn lớp màng đáy còn nguyên vẹn.
- Về đại thể: không có gì đặc biệt, khi soi cổ tử cung chú ý đến các vùng trắng sùi, vùng mất
glycogen (vùng đổi màu), vùng có dị sản.
- Về vi thể: các tế bào còn non mất tính chất biệt hóa và sự sắp xếp lớp, nguyên sinh chất
kiềm tính, nhân lớn, nhân quái dị, hạt nhân to.
2.3. Ung thư biểu mô xâm nhập
2.3.1. Ung thư biểu mô vảy xâm nhập
Đây là loại ung thư phổ biến, thường gặp và có liên quan đến nhiễm HPV.
- Đại thể: U có dạng một nốt cứng hoặc một ổ loét nông hoặc sùi gồ lên trên bề mặt, rất dễ
chảy máu khi đụng vào. Vị trí thường thấy là ở vùng nối tiếp giữa cổ trong và cổ ngoài của cổ
tử cung, xung quanh gốc u tạo một nền cứng.
- Vi thể: Được chia làm 3 độ biệt hóa
+ Độ 1 (biệt hóa tốt): gồm các tế bào lớn, bào tương nhiều, to nhỏ không đều, nhân to quái
dị, hình ảnh nhân phân chia. Chúng đứng với nhau từng đám lớn, giữa các ổ tế bào có các
phiến sừng cuộn lại gọi là cầu sừng.
+ Độ 2 (biệt hóa vừa): gồm các tế bào ác tính đa dạng hơn, ít bào tương, rất ít thấy cầu nối
liên bào.
+ Độ 3 (biệt hóa kém): gồm các tế bào ác tính dạng tế bào đáy, nhân kiềm tính, bào tương ít
rõ, rất nhiều hình ảnh nhân phân chia.
2.3.2. Ung thư biểu mô tuyến xâm nhập
Loại này chiếm khoảng 5-7% của ung thư xâm nhập. Hình ảnh vi thể gồm các đám tế bào ác
tính to nhỏ không đều, nhân lớn, quái dị. Chúng sắp xếp thành các dạng ống tuyến.
2.3.3. Ung thư biểu mô tuyến - vảy
Loại này hiếm gặp, về mô học gồm cả 2 thành phần vảy và tuyến ác tính.
Tóm lại: Ung thư biểu mô xâm nhập cổ tử cung là bệnh phổ biến và có tỷ lệ tử vong cao. Do
vậy, vấn đề tầm soát nhằm phát hiện các tổn thương giai đoạn sớm và điều trị phối hợp phẫu
thuật với xạ trị, nhằm kéo dài tuổi thọ cho người bệnh là hết sức cần thiết.
105
BỆNH NGUYÊN BÀO NUÔI
Mục tiêu học tập
1- Trình bày được nguồn gốc phát sinh của bệnh nguyên bào nuôi
2- Mô tả được các giai đoạn biệt hóa chính của tế bào nuôi
3- Nêu và mô tả được chửa trứng lành tính, chửa trứng ác tính và ung thư tế bào nuôi.
I. ĐẠI CƯƠNG
Bệnh nguyên bào nuôi là bệnh xuất phát từ lớp biểu mô nuôi, có nhiệm vụ nuôi
dưỡng và bảo vệ cho thai nhi.Về phương diện nguồn gốc thì lớp biểu mô này được hình thành
rất sớm, kể từ khi trứng vừa mới thụ tinh và bắt đầu làm tổ ở niêm mạc tử cung của người mẹ.
Bản thân nguyên bào nuôi là mô đầu tiên được biệt hóa trong bào thai còn non và trở
thành ngoại bào thai khi phát triển thành nhau thai. Nó hình thành vách ngăn cách bào thai với
mô và máu của người mẹ. Các bệnh của nguyên bào nuôi đều liên quan đến chửa đẻ và do
vậy gây nhiều ảnh hưởng đến phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Đây là bệnh duy nhất thấy có ở người mà tế bào phát sinh u lại thuộc về một cơ thể
khác, tức là thai nhi. Bệnh có đặc điểm diễn tiến nhanh, có khi gây tử vong cho người mẹ
trong khoảng 3-6 tháng. Ngược lại nếu được điều trị kịp thời thì bệnh đáp ứng rất tốt với hóa
trị liệu.
Bệnh còn được gọi là bệnh nguyên bào nuôi do chửa đẻ vì có liên quan đến chửa đẻ.
Có mang thai mới có các bệnh này và là bệnh rất phổ biến, thường gặp ở các nước vùng Đông
Nam Á. Tại các nước như Phi lip pin, Sing ga po, Inđônêxia, Hồng Kông tỷ lệ mắc bệnh chửa
trứng lành tính chiếm từ 0,25% -0,85% ở phụ nữ mang thai, trong khi đó thì tỷ lệ này đối với
các nước Châu Âu chiếm khoảng 0,5%0 -1%0 .
Hằng năm, trên thế giới cứ khoảng 126 triệu người sinh đẻ thì có tới 126.000 người mắc bệnh
chửa trứng (chiếm 1%0 ), trong đó 10% cần được tiến hành hóa trị liệu cho bệnh ung thư
nguyên bào nuôi và chửa trứng xâm nhập. Theo ước tính, trong chửa trứng lành tính có 15%
biến chứng thành chửa trứng xâm nhập và 2-3% trở thành ung thư nguyên bào nuôi.
Về di truyền học, bệnh chửa trứng toàn phần có nhiễm sắc thể đồ là 46XX, nhưng 2X của cha
do nhân đôi của nhiễm sắc thể đồ đơn bội của tinh trùng trong một noãn rỗng (không có NST
giới tính , không có DNA của mẹ) và từ 3-13% chửa trứng toàn phần có nhiễm sắc thể đồ là
46XY do thụ tinh của hai tinh trùng 1X, 1Y vào một noãn rỗng. Nhiễm sắc thể đồ của chửa
trứng bán phần thường là tam bội thể với 69 nhiễm sắc thể, trong đó 46 từ cha và 23 từ mẹ.
II. QUÁ TRÌNH TẠO THÀNH LỚP TẾ BÀO NUÔI VÀ SỰ BIỆT HÓA
1. Quá trình tạo thành lớp tế bào nuôi
Trứng sau khi thụ tinh ở 1/3 ngoài của vòi trứng thì bước vào quá trình phân chia. Qua
nghiên cứu cho thấy khoảng 10 giờ sau khi thụ tinh, trứng đã thụ tinh bắt đầu bước vào quá
trình phân chia .
Quá trình phân chia lần thứ nhất tạo ra 2 nguyên bào, lần phân chia thứ hai cũng được tiến
hành theo mặt phẳng thẳng đứng tạo ra 4 nguyên bào, nhưng đến lần phân chia thứ ba trứng
lại phân chia theo mặt phẳng nằm ngang và lệch trục, kết quả tạo ra 8 nguyên bào có kích
thước không đều nhau: bốn nguyên bào ở cực trên có kích nhỏ hơn được gọi là tiểu nguyên
bào. Còn bốn nguyên bào ở cực dưới có thể tích lớn hơn được gọi là đại nguyên bào.
106
Bước phân chia tiếp theo, do các tiểu nguyên bào ở cực trên có kích thước nhỏ nên bước vào
quá trình phân chia nhanh hơn so với khối đại nguyên bào ở cực dưới. Kết quả là tạo ra một
khối tế bào bao phủ hết khối đại nguyên bào bên trong. Giai đoạn này được gọi là phôi dâu
(trông phôi giống quả dâu).
Lớp tiểu nguyên bào bao phủ bên ngoài trứng về sau phát triển thành lá nuôi (gồm các tế bào
nuôi sau này) vì chúng là phần quan trọng của nhau thai, cơ quan dinh dưỡng chính của phôi,
còn phần đại nguyên bào bên trong sau này phát triển thành thai nhi.
Khi trứng di chuyển xuống niêm mạc tử cung để làm tổ thì lớp tế bào nuôi cũng vừa
mới hình thành xong, chính nhờ lớp tế bào nuôi này nên trứng mới có khả năng chui vào niêm
mạc tử cung để làm tổ và phát triển.
Lớp tế bào nuôi (trophoblast) gồm hai hàng tế bào: hàng trong là các đơn bào nuôi
(cytotrophoblast), hàng ngoài cùng là các hợp bào nuôi (plasmoditrophoblast).
2. Sự biệt hóa của lớp tế bào nuôi
Tế bào nuôi sau khi được hình thành sẽ tiếp tục phát triển và biệt hóa. Sự biệt hóa của
lớp tế bào nuôi có thể chia làm ba giai đoạn chính như sau :
+ Giai đoạn 1: giai đoạn chưa hình thành lông nhau, từ ngày thứ 6-13
Giai đoạn này tế bào nuôi hợp thành một khối đặc gọi là bản tế bào nuôi, gồm hai lớp tế bào
rõ rệt. Lớp sâu là các đơn bào nuôi, ranh giới rõ, nguyên sinh chất sáng, lổ rỗ, nhân lớn. Lớp
nông là các hợp bào nuôi, chúng có ranh giới không rõ, bào tương bắt màu đỏ và bên trong
chứa rất nhiều nhân.
+ Giai đọan 2: giai đoạn bè, từ ngày thứ 13 -15
Lúc này trong khối đặc của tế bào nuôi lại xuất hiện các khe. Các khe ngày càng giãn rộng và
tạo nên hồ huyết. Các hợp bào nuôi bên ngoài xuyên qua hồ huyết nối lớp trong và lớp ngoài
tạo nên hình ảnh lông nhau nguyên thủy.
+ Giai đoạn 3: giai đoạn màng đệm có lông nhau, từ ngày thứ 15- 24
Lớp trung mô của bào thai chui vào các lông nhau nguyên thủy và tại đó hình thành những
huyết quản nối liền huyết quản của bào thai. Từ đây tạo nên lông nhau chính thức mà trục liên
kết ở giữa chứa các nguyên bào xơ non và các huyết quản.
Hệ thống lông nhau này có chức năng lọc lấy chất dinh dưỡng từ hồ huyết để nuôi thai và lúc
này bào thai sống tự lập.
Dựa vào sự phát triển của bào thai với sự biệt hóa của lớp tế bào nuôi người ta chia 3 nhóm
bệnh lý chính của bệnh nguyên bào nuôi là: chửa trứng lành tính, chửa trứng xâm nhập, ung
thư tế bào nuôi.
III. CHỬA TRỨNG LÀNH TÍNH (Hydatiform mole)
1. Định nghĩa
Chửa trứng lành tính là bệnh lành tính của biểu mô nuôi, có các đặc điểm:
-Lớp tế bào nuôi lót bên ngoài lông nhau quá sản nhẹ
-Thoái hóa nước các lông nhau
-Trục liên kết các lông nhau không có các huyết quản
2. Tổn thương đại thể
107
Kích thước tử cung của bệnh nhân to hơn kích thước tử cung bình thường có cùng tuổi
thai, bệnh nhân có thể có ra huyết âm đạo và triệu chứng nghén rầm rộ hơn.
Quan sát bề mặt lớp thanh mạc ngoài cùng của tử cung thấy trơn láng, màu trắng hồng, có khi
có xung huyết nhẹ, ở vùng đáy của tử cung tạo thành một khối phồng to, ấn vào có cảm giác
lùng nhùng.
Xẻ dọc thân tử cung thấy bên trong lòng tử cung chứa khối u có màng bao bọc màu đỏ thẫm.
Khối này dễ mủn nát và dễ tách rời khỏi niêm mạc tử cung lúc bóc tách. Xẻ bọc u, thấy bên
trong bọc chứa các nang nước (bọng nước) giống như những chùm trứng ếch có đường kính
từ 0,5-1cm. Các nang to nhỏ không đều và dính lại với nhau bởi các cuống nhỏ trông như
những chùm nho.
Trung tâm khối u có thể gặp các ổ hoại tử, mủn nát, màu vàng nhạt hoặc chảy máu.
3. Tổn thương vi thể
Hình ảnh vi thể của chửa trứng lành tính có những điểm giống với nhau thai bình
thường. Lớp tế bào nuôi lót bên ngoài các lông nhau quá sản vừa phải, có ranh giới rõ ràng
giữa đơn bào nuôi và hợp bào nuôi, các tế bào đều bình thường. Trục liên kết bên trong của
các lông nhau bị thoái hóa nước, trương phình to và không còn thấy huyết quản.
Hình1-2: Tổn thương đại thể và vi thể của chửa trứng lành tính
IV. CHỬA TRỨNG XÂM NHẬP (Invasive mole)
1. Định nghĩa
Chửa trứng xâm nhập là bệnh ác tính của biểu mô nuôi có đặc điểm:
-Quá sản mạnh của nhiều tế bào nuôi mang tính chất ác tính
-Có sựû tồn tại của nhiều lông nhau
-Sự xâm nhập, phá hủy và khu trú ở lớp cơ tử cung là chủ yếu
2. Tổn thương đại thể
Kích thước tử cung thường không to, bệnh nhân cũng có ra huyết âm đạo, bề mặt lớp
thanh mạc tử cung trơn láng, trắng hồng, đại đa số tử cung không thay đổi hình dạng nhưng
khi tổ chức u xâm nhập và phát triển to ra thì có thể thấy bên ngoài tử cung nổi gồ lên về phía
108
có u. Cóï khi tử cung bị phá hủy, nhiều nang trứng cùng mô hoại tử chui vào phúc mạc gây
chảy máu. Qua diện cắt thấy tổ chức u xâm nhập sâu vào lớp cơ tử cung, tạo nên các hốc
nham nhở kèm những mô mủn nát.
3. Tổn thương vi thể
Cấu tạo của chửa trứng xâm nhập rất phức tạp. Những nang trứng lành tính xen kẽ với
những nang ác tính gồm quá sản lớp tế bào nuôi rất mạnh và hỗn loạn, nhiều đơn bào nuôi rất
to họp thành khối lớn quanh trục liên kết và có nhiều hình thái chuyển tiếp thành hợp bào
nuôi, xen kẽ là các hợp bào nuôi nhiều nhân quái, ranh giới không rõ. Lớp cơ bị thoái hóa,
hoại tử và xâm nhập nhiều đơn bào nuôi kèm tế bào lympho.
Hình 3-4 : Tổn thương vi thể của chửa trứng xâm nhập
V. UNG THƯ BIỂU MÔ NUÔI (Choriocarcinoma)
1. Định nghĩa
Ung thư biểu mô nuôi là bệnh ác tính của biểu mô nuôi, có đặc điểm :
-Quá sản và loạn sản hoàn toàn các tế bào nuôi
-Không hình thành lông nhau
-Tổ chức u thường di căn đến nhiều phủ tạng và di căn xa
Hertig và Mansell nhận thấy 50% ung thư tế bào nuôi có tiền sử chửa trứng lành tính, 25% có
tiền sử sẩy thai, 22% phát triển từ thai thường và 2,5% có tiền sử từ thai ngoài tử cung.
2. Tổn thương đại thể
Kích thước tử cung lớn, lớp bề mặt thanh mạc tử cung trơn láng, trắng hồng, tử cung
không biến đổi hình dạng. Tuy nhiên, một số trường hợp, trên thanh mạc tử cung có những
khối tròn nổi gồ lên, màu tím sẫm hoặc có khi tử cung bị vỡ và phía đáy tử cung chứa đầy
máu sẫm kèm mô hoại tử. Buồng trứng to hơn bình thường, có khi gặp u nang buồng trứng
đường kính có thể đến 10cm, chứa đầy nước hoặc máu. Qua diện cắt tử cung gặp các nhân
ung thư nằm ở bề mặt hoặc ăn sâu vào lớp cơ tử cung.
3. Tổn thương vi thể
109
Lớp cơ tử cung bị phá hủy, tổ chức u xâm lấn gây chảy máu dữ dội, mô bị hoại tử.
Xen kẽ giữa các bó sợi cơ trơn tử cung bị phân tán là các đám tế bào nuôi mang tính chất ác
tính. Các đơn bào nuôi loạn sản to nhỏ không đều, nhân quái dị, hạt nhân to, một số chuyển
dạng thành hợp bào nuôi, các hợp bào nuôi cũng quái gở, phân bố hỗn loạn. Các đám tế bào
này khi đứng thành đám, khi thì phân bố xa nhau, đặc biệt không thấy hình ảnh lông nhau.
Mô đệm có phản ứng lympho bào yếu nhưng sự hiện diện BCĐN rất nhiều (do bội nhiễm).
Hình 5-6 : Tổn thương vi thể của ung thư tế bào nuôi
U thường cho di căn xa, 90% di căn đến phổi, 20-60% di căn đến gan và não. Ngoài
ra, u có thể di căn đến bất kỳ nơi nào như thận, ổ bụng, ống tiêu hóa, âm hộ, âm đạo...
Trước khi có hóa trị liệu, tiên lượng của bệnh rất xấu, chỉ có khoảng 30% bệnh nhân sống
thêm 5 năm sau cắt bỏ tử cung. Hiện nay, với hóa trị liệu, tỷ lệ này là 80%. Bệnh nhân thường
chết do xuất huyết hoặc ho ra máu.
VI. TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH NGUYÊN BÀO NUÔI
1. Chửa trứng lành tính
+ Chết do chảy máu tử cung
+ Thủng tử cung
+ Nghẽn mạch do nguyên bào nuôi
+ Tiến triển thành chửa trứng xâm nhập hoặcung thư tế bào nuôi
2. Chửa trứng xâm nhập
+ Chảy máu
+ Thủng tử cung (hay gặp)
+ Di căn gần (âm đạo), di căn xa (đến phổi và các phủ tạng khác)
+ Biến thành ung thư tế bào nuôi (hiếm)
+ Thoái triển tự nhiên (hiếm)
110
3. Ung thư tế bào nuôi
+ Chảy máu (hay gặp)
+ Thủng tử cung
+ Di căn đến nhiều phủ tạng: hay gặp nhất là ở phổi (hình bóng bay trên XQ)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phau_benh_hoc_bai_15_16_385.pdf