Địa hình đáy biển trong vùng rất phức tạp với đặc trưng của một biển rìa, bao gồm các địa hình: thềm lục địa, sườn lục địa và chân lục địa với các hố sụt và khối nâng địa phương, mực nước biển sâu từ 0-3.000m.
Các đơn vị địa chất ở đây nằm trên phần vỏ lục địa và vỏ chuyển tiếp giữa lục địa và đại dương, cũng có thể có một phần nằm trên vỏ á đại dương ở phía Đông (?). Thềm lục địa rất hẹp, mực nước sâu từ 0-200m, nằm trên móng granit phân dị, nơi móng nhô cao tạo thành các dải nâng ngầm và
nơi sụt lún tạo thành các trũng tích tụ nhỏ.
Do hoạt động của các hệ thống đứt gãy, móng của thềm bị trượt theo khối, tạo ra dạng địa hình bậc thang, sâu dần về phía Biển Đông. Sườn lục địa kế tiếp thềm Đà Nẵng, Phan Rang là một vùng có độ sâu nước biển từ 150 đến 3.000m, độ dốc từ vài độ đến vài chục độ, bề rộng từ 20km-200km. Mức độ phân cắt sườn lục địa cao hơn nhiều so với phần thềm, với nhiều dẫy núi ngầm và rạch ngầm (canyon). Ở phần phía Bắc, tương ứng với Quảng Nam đến Bình Định và phần phía Nam tương ứng với Bình Thuận-Ninh Thuận, sườn lục địa tương đối rộng, ngược lại ở vùng giữa, tương ứng với Nam Bình Định đến Khánh Hòa, sườn lục địa rất hẹp, có nơi chỉ còn 18km, tạo thành một hình móng ngựa, đánh dấu vùng biển tách giãn lấn sâu nhất vào gần địa khối Kon Tum. Các đồng bằng biển thẳm địa hình tương đối bằng phẳng nằm ở phía ngoài chân sườn lục địa. Tuy không
có những tài liệu địa chấn nhưng theo các kết quả nghiên cứu trọng lực, nằm dưới đồng bằng biển thẳm là những địa hào kích thước khác nhau, đó là những trũng tích tụ, bề dày trầm tích có thể lên đến 3 - 4 km.
26 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bể trầm tích Phú Khánh và tài nguyên dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Bể trầm tích
Phú Khánh và
tài nguyên
dầu khí
8
237
Chương 8. Bể Phú Khánh và tài nguyên dầu khí
Bể Phú Khánh nằm dọc theo bờ biển
miền Trung Việt Nam, giới hạn bởi vĩ tuyến
140 - 110 Bắc và kinh tuyến 109020’ - 1110
Đông hoặc cũng có thể phát triển hơn về
phía Đông (xem Hình 5.1, chương 5). Về
phương diện địa chất, bể Phú Khánh giáp
giới với bể Cửu Long ở phía Nam, bể Nam
Côn Sơn ở phía Đông Nam, bể Sông Hồng
ở phía Bắc, bể Hoàng Sa ở phía Đông Bắc,
thềm Đà Nẵng, thềm Phan Rang ở phía Tây
và về phía Đông, nơi chưa được nghiên cứu,
có thể tồn tại một bể khác nằm giữa bể Phú
Khánh và phần sâu nhất của Biển Đông.
Địa hình đáy biển trong vùng rất phức
tạp với đặc trưng của một biển rìa, bao gồm
các địa hình: thềm lục địa, sườn lục địa và
chân lục địa với các hố sụt và khối nâng địa
phương, mực nước biển sâu từ 0-3.000m.
Các đơn vị địa chất ở đây nằm trên phần vỏ
lục địa và vỏ chuyển tiếp giữa lục địa và
đại dương, cũng có thể có một phần nằm
trên vỏ á đại dương ở phía Đông (?). Thềm
lục địa rất hẹp, mực nước sâu từ 0-200m,
nằm trên móng granit phân dị, nơi móng
nhô cao tạo thành các dải nâng ngầm và
nơi sụt lún tạo thành các trũng tích tụ nhỏ.
Do hoạt động của các hệ thống đứt gãy,
móng của thềm bị trượt theo khối, tạo ra
dạng địa hình bậc thang, sâu dần về phía
Biển Đông. Sườn lục địa kế tiếp thềm Đà
Nẵng, Phan Rang là một vùng có độ sâu
nước biển từ 150 đến 3.000m, độ dốc từ
vài độ đến vài chục độ, bề rộng từ 20km-
200km. Mức độ phân cắt sườn lục địa cao
hơn nhiều so với phần thềm, với nhiều dẫy
núi ngầm và rạch ngầm (canyon). Ở phần
phía Bắc, tương ứng với Quảng Nam đến
Bình Định và phần phía Nam tương ứng
với Bình Thuận-Ninh Thuận, sườn lục địa
tương đối rộng, ngược lại ở vùng giữa,
tương ứng với Nam Bình Định đến Khánh
Hòa, sườn lục địa rất hẹp, có nơi chỉ còn
18km, tạo thành một hình móng ngựa, đánh
dấu vùng biển tách giãn lấn sâu nhất vào
gần địa khối Kon Tum. Các đồng bằng biển
thẳm địa hình tương đối bằng phẳng nằm ở
phía ngoài chân sườn lục địa. Tuy không
có những tài liệu địa chấn nhưng theo các
kết quả nghiên cứu trọng lực, nằm dưới
đồng bằng biển thẳm là những địa hào kích
thước khác nhau, đó là những trũng tích tụ,
bề dày trầm tích có thể lên đến 3 - 4 km.
Do bể Phú Khánh chủ yếu thuộc vùng
nước sâu, công tác nghiên cứu còn ít, chưa
có khoan thăm dò nên những nét cấu trúc
địa chất chính được khái quát theo tài liệu
khảo sát địa chấn khu vực và liên hệ với
các bể trầm tích lân cận, nơi đã được nghiên
cứu tương đối chi tiết, đã có phát hiện và
đang khai thác dầu khí.
1. Giới thiệu
238
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
2. Lịch sử nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò
dầu khí
Mặc dù bể Phú Khánh còn ít được nghiên
cứu, song công tác nghiên cứu địa chất ở
phần đất liền sát phía Tây bể Phú Khánh
được các nhà địa chất Pháp nghiên cứu từ
rất sớm trong công tác khảo sát lập bản đồ
tỷ lệ 1:500.000 vùng Đà Nẵng (1935), Nha
Trang (1937) và Qui Nhơn (1942).
Điểm lộ dầu lần đầu tiên được phát
hiện vào 1920-1923 tại Đầm Thị Nại (Qui
Nhơn), phần đất liền kề với bể Phú Khánh.
Năm 1944 các nhà địa chất Pháp đã khoan
tìm kiếm ở đây nhưng không còn tài liệu để
lại. Từ 1944-1964, Saurin cũng đã nghiên
cứu điểm lộ dầu ở Đầm Thị Nại và kết luận
rằng nguồn dầu không phải từ Neogen mà
có lẽ từ các lớp Sapropel giàu tảo (algae)
ở vịnh Qui Nhơn cung cấp [27,28]. Từ sau
năm 1960 nhiều cuộc khảo sát của các nhà
địa chất-địa vật lý Pháp, Mỹ, Đức, Nhật,
Trung Quốc đã được tiến hành trong các
chương trình nghiên cứu biển Đông. Từ sau
năm 1970, các công ty dầu khí nước ngoài
đã tiến hành các nghiên cứu địa chất-địa vật
lý với mục đích tìm kiếm dầu khí sơ bộ dưới
sự quản lý của chính quyền Sài Gòn cũ và
từ 1979 đến nay các hoạt động nghiên cứu
càng được tăng cường dưới sự quản lý của
Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam và
sau này là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Cho đến nay, ở vùng biển miền Trung thuộc
khu vực bể Phú Khánh đã có nhiều khảo
sát địa vật lý như GSI (Mỹ,1974), Malưgin
(Liên Xô, 1984), GECO-PRAKLA (1993),
NOPEC (1993) với khối lượng khảo sát
khoảng 17.000 Km tuyến địa vật lý.
Các nghiên cứu trên phần đất liền được
nhiều nhà địa chất tiến hành từ 1977 đến
nay. Lê Như Lai, Nguyễn Quang Hinh
(1977); Phan Huy Quynh (1980); Sladen,
Nguyễn Quang Bô (1991); Trần Tĩnh (1988-
1997); Lê Thành (1998) đã phân tích các
mẫu ở vùng Đầm Thị Nại và cho thấy loại
dầu ở vết lộ tương tự với dầu trong carbonat
Miocen ở giếng khoan 119-CH-1X và cho
rằng dầu lộ có thể có nguồn gốc từ phần
sâu của bề Phú Khánh dịch chuyển lên qua
các đứt gãy trong vùng. Năm 2000 Viện
Dầu khí hợp tác với Viện Địa chất Nhật
Bản (JGI) nghiên cứu các vết lộ từ Nông
Sơn đến Kon Tum, Sông Ba, Đầm Thị Nại.
Năm 2002-2003 Phạm Quang Trung cùng
các cộng sự ở Viện Dầu khí tiếp tục nghiên
cứu các mẫu lộ dầu ở Đầm Thị Nại. Các
kết luận của các tác giả này còn rất trái
ngược nhau nên vấn đề nguồn gốc dầu lộ,
chất lượng nguồn đá mẹ còn chưa được giải
quyết và cần phải nghiên cứu tiếp.
Trong những năm 2001-2004, Viện Dầu
khí đã chủ trì đề tài cấp nhà nước KC-09-06
nghiên cứu về địa động lực và tiềm năng
dầu khí các vùng nước sâu, xa bờ, trong
đó có khu vực bể Phú Khánh. Cũng trong
thời gian này, dự án ENRECA do Viện Dầu
khí hợp tác với Cục Địa chất Đan Mạch và
Greenland (GEUS) đã tiến hành nghiên
cứu tổng thể địa chất và tiềm năng dầu khí
bể Phú Khánh, trong đó có tập trung nghiên
cứu sâu về địa hoá và trầm tích của khu vực
Đầm Thị Nại và trũng Sông Ba, phần đất
liền kề với bể Phú Khánh.
Các kết quả nghiên cứu trên đây, được
công bố trong các báo cáo tổng hợp hoặc
chuyên đề, lưu trữ tại Trung tâm Thông tin
Tư liệu Dầu khí và Viện Dầu khí, thuộc
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, và Viện
Thông tin Lưu trữ Bảo tàng Địa chất, thuộc
239
Chương 8. Bể Phú Khánh và tài nguyên dầu khí
Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam,
cũng như đã công bố trên các Hội nghị, tạp
chí trong và ngoài nước, được liệt kê trong
phần tài liệu tham khảo, là những nguồn tài
liệu chính để tham khảo viết chương này.
Điểm nổi bật cần lưu ý là tất cả những điều
trình bày ở chương này đều dựa trên kết
quả giải thích địa chất các tài liệu địa vật
lý là chủ yếu vì trong khu vực này chưa có
công trình khoan. Các giếng khoan dùng để
liên kết với tài liệu địa vật lý đều nằm ở
các bể trầm tích kế cận (Sông Hồng, Cửu
Long, Nam Côn Sơn), vừa xa, vừa có cấu
trúc địa chất khác biệt, lại bị phân cắt bởi
các hệ thống đứt gãy, các đới nâng phức
tạp nên độ chính xác còn chứa nhiều hạn
chế.
3. Đặc điểm cấu kiến tạo
3.1. Các yếu tố cấu trúc chính
Trên cơ sở bản đồ cấu trúc móng trước
Đệ Tam có thể phân chia bể Phú Khánh và
vùng lân cận thành một số yếu tố cấu trúc
chính như (Hình 8.1):
• Thềm Đà Nẵng;
• Thềm Phan Rang;
• Đới nâng Tri Tôn;
• Trũng sâu Phú Khánh;
• Đới cắt trượt Tuy Hòa.
Thềm Đà Nẵng nằm ở phía Tây Bắc
bể Phú Khánh, kéo dài theo phương bắc
nam, độ sâu mực nước nhỏ hơn 100m, với
tầng trầm tích Kainozoi mỏng, chiều dày
trầm tích biến đổi tăng dần về phía Đông
(Hình 8.2).
Thềm Phan Rang nằm ở phía Tây
Nam bể Phú Khánh. Cả hai thềm này đều
là phần rìa Đông của địa khối Kon Tum và
là những khối tương đối vững chắc trong
suốt quá trình hình thành, phát triển bể Phú
Khánh. Trong quá trình tách giãn, các thềm
này được duy trì, chỉ có những nơi không
vững chắc do ảnh hưởng của các khối đứt
gãy, hình thành nên các địa hào hoặc bán
địa hào nhỏ cũng như những địa lũy nhỏ.
Các địa hào - bán địa hào này chủ yếu phân
bố ở vùng thềm Đà Nẵng (Hình 8.2). Các
hoạt động kiến tạo ở vùng thềm rất yếu
(Hình 8.3). Tương tự như thềm Đà Nẵng,
ở đây trầm tích Đệ Tam mỏng, thay đổi từ
vài chục mét đến trên 1.000 m ở phía Đông.
Thành phần trầm tích chủ yếu là clastic. Ở
những đới cao thuộc rìa phía Đông phát
triển các trầm tích carbonat trong Miocen.
Đới nâng Tri Tôn nằm phía Đông địa
hào Quảng Ngãi, Bắc đới đứt gãy Đà Nẵng
và trũng sâu Phú Khánh. Đới nâng này
còn có tác giả gọi là đới nâng Quy Nhơn
[23]. Qua tài liệu địa chấn có thể thấy vào
Trịng s©u
Phĩ Kh¸nh
§íi c¾t tr−ỵt Tuy Hoμ
§íi
®øt
g·y
§μ n
½ng
T
hỊ
m
Ph
an
ra
ng
T
hỊ
m
§
μ
n½
ng
BĨ
C
ưu
Lo
ng
BĨ
N
am
C
«n
S¬
n
§í
i n
©n
g P
hĩ
Qu
ý
§íi n©ng
Tri T«n
§
Þa
hμo
Q
u¶ng
N
g·i
BĨ S«ng
Hång
BĨ Nam
H¶i Nam
Tr
ơc
Gi
·n
®¸
y
Bi
Ĩn
§«
ng
Hình 8.1. Các yếu tố cấu trúc bể Phú Khánh
và lân cận
240
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Miocen giữa khu vực này chịu sự vận động
nén ép, bị uốn nếp và nâng lên, thậm chí bị
lộ ra trên mặt biển trong một thời gian dài,
nên bị bào mòn, đào khoét mạnh mẽ. Hoạt
động này chấm dứt vào đầu Miocen muộn
và quá trình lún chìm lại xảy ra, tạo điều
kiện trầm đọng các trầm tích Miocen trên
và Pliocen - Đệ Tứ có thế nằm bình ổn và
tương đối phẳng.
Trũng sâu Phú Khánh nằm ở khu vực
nước sâu, phía Tây tiếp giáp với vùng sườn
lục địa. Đây là vùng có bề dày trầm tích lớn
nhất của bể Phú Khánh (Hình 8.3, 8.4). Bản
đồ dị thường trọng lực cho thấy phần phía
Đông của bể Phú Khánh là dị thường âm có
hình dạng gần đẳng thước với độ sâu cực
đại nằm ở vùng giao điểm giữa kinh tuyến
110O20 Đông và vĩ tuyến 13O Bắc. Giới hạn
phía Đông của trũng sụt lún lớn này nằm ở
gần kinh tuyến 112O Đông, sau đó chuyển
tiếp sang phần sâu nhất của biển Đông.
Đới cắt trượt Tuy Hòa (Tuy Hoa shear
zone) nằm ở phía Tây Nam của bể Phú
Khánh là một vùng có các đứt gãy biên độ
lớn, một số trong các đứt gãy đó xuất phát
từ trong móng (Hình 8.5). Phương cấu tạo
tây bắc - đông nam của đới cắt trượt Tuy
Hòa tương tự như phương của hệ thống đứt
gãy Sông Hồng ở phần đất liền miền Bắc
Việt Nam. Theo Tapponnier (1982), điều
này có lẽ liên quan đến sự biến dạng đới
cắt trượt lớn (mega shear zone), kết quả
của sự di chuyển khối Indochina và Âu - Á.
Trũng sụt lún cạnh đới cắt trượt Tuy Hòa
được hình thành nối liền với phần lớn các
địa hào xuất hiện trong pha tách giãn chính
và trong đó các trầm tích Oligocen dưới, có
thể có cả trầm tích Eocen đã trầm đọng.
Gần đây (2003) một số tác giả ở Viện
Dầu Khí như Lê Đình Thắng, Lê Vân Dung
còn phân chia thêm một đơn vị cấu trúc
mới, đó là đới đứt gãy Đà Nẵng. Đới này
nằm ở phía Nam đới nâng Tri Tôn, tương
ứng với khoảng vĩ độ 13O30 Bắc và là giới
hạn phía cực Bắc của trũng sâu Phú Khánh.
Đới đứt gãy này bao gồm các khối đứt gãy
trượt bằng có phương đông bắc - tây nam
và sụt bậc, sâu dần về phía Đông Nam. Các
Hình 8.2. Mặt cắt địa chấn tuyến VOR-93-101, qua thềm Đà Nẵng và đới đứt gãy Đà Nẵng
241
Chương 8. Bể Phú Khánh và tài nguyên dầu khí
đứt gãy, bậc sụt được hình thành chủ yếu
trong pha tách giãn đầu tiên và các trầm
tích từ Eocen (?), Oligocen được trầm đọng
trong các địa hào kế cận (Hình 8.2).
Cùng với đới cắt trượt Tuy Hòa ở phía
cực Nam, đới đứt gãy Đà Nẵng tạo thành
khung hình móng ngựa hở về phía Đông
của trũng sâu Phú Khánh.
Ngoài các yếu tố cấu trúc trên, một số
công trình nghiên cứu vùng này còn đưa
khu vực Đông Bắc bể Cửu Long, Tây Bắc
bể Nam Côn Sơn vào thành phần của khu
vực bể Phú Khánh [37]. Phần mô tả các khu
vực này bạn đọc có thể tham khảo trong
các chương 9, 10 của quyển sách này.
3.2. Lịch sử phát triển bể Phú Khánh
Bể Phú Khánh là một bể tách giãn rìa
lục địa thụ động hoặc còn có thể xem là
một bể rìa lục địa liên quan đến va chạm
các mảng kiến tạo Ấn Độ, Âu - Á và hoạt
động tách giãn biển Đông với lịch sử phát
triển nhiều pha. Bề dày trầm tích từ 500m
ở rìa phía Tây và hơn 10.000m ở trung tâm
những hố sụt phía Đông bể. Ở phía Tây, bể
Phú Khánh tiếp giáp với thềm Phan Rang
và thềm Đà Nẵng. Về phía Nam bể bị ngăn
cách với bể Cửu Long bằng đới cắt trượt
Tuy Hòa, một đới với các biến dạng dọc
theo các mặt có ứng suất tiếp tuyến cực đại
theo hướng tây bắc-đông nam. Ở phía Bắc,
bể Phú Khánh bị ngăn cách với đới nâng
Tri Tôn và địa hào Quảng Ngãi bằng đới
đứt gãy Đà Nẵng (Hình 8.1). Theo các kết
quả nghiên cứu địa chất kiến tạo của các
tác giả nước ngoài và trong nước, sự tiến
hóa kiến tạo của bể Phú Khánh cùng có
chung một đặc điểm như các bể trầm tích
Đệ Tam khác quanh biển Đông và có thể
chia thành các giai đoạn tiến hóa kiến tạo
chính theo quan điểm của các chuyên gia ở
Petrovietnam như sau [37]:
Giai đoạn tiền rift (Creta muộn - Eocen)
Trong giai đoạn Creta muộn, quá trình
thúc trồi của phần Tây Nam Biển Đông
được chi phối chủ yếu bởi các hoạt động
trượt bằng ngang ở các hệ thống đứt gãy
Hình 8.3. Mặt cắt địa chấn tuyến VOR-93-101 cắt ngang trũng sâu Phú Khánh
242
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Sông Hồng, Tuy Hòa và Three Pagoda.
Trong Creta muộn - Paleocen hoạt động
phun trào axit xảy ra trên diện rộng, hoạt
động bào mòn mạnh mẽ tiếp nối sau hoạt
động nâng trồi. Trong Eocen muộn do tác
động của chuyển dịch, va mảng Ấn Độ với
mảng Âu Á, đưa lại kết quả là phát triển
khu vực hút chìm mới theo hướng đông bắc
- tây nam. Hoạt động này tạo ra Biển Đông
cổ. Hoạt động căng giãn khởi đầu trong thời
gian này làm giập vỡ móng trước Đệ Tam
(đã từng cố kết và gắn liền với địa khối Kom
Tum) tạo tiền đề cho bể Phú Khánh được
hình thành như là hệ quả của chuyển động
dịch chuyển và quay của khối Indochina,
cũng như sự căng giãn đi liền với chuyển
động quay và mở rộng Biển Đông.
Giai đoạn đồng tạo rift (Eocen muộn? -
Oligocen)
Quá trình hút chìm của biển Đông cổ
dọc theo máng Bắc Borneo tiếp diễn, tạo
ra các ứng suất căng giãn trong mảng hút
chìm làm tăng thêm sức kéo căng của rìa
Indochina và đỉnh cao nhất của hoạt động
này là tạo ra sự giãn đáy biển ở vùng nước
sâu của biển Đông vào giữa Oligocen. Đây
là pha hoạt động tách giãn mạnh nhất, diễn
ra gần như đồng thời trong tất cả các bể trầm
tích Đệ Tam phía Tây Nam biển Đông. Ở
bể Phú Khánh pha này khởi đầu cho sự hình
thành, phát triển các địa hào song song với
hướng mở của biển Đông và tạo môi trường
trầm tích cận lục địa (Hình 8.6). Hoạt động
sụt lún và mở rộng ở vùng này đạt quy mô
cực đại trong Oligocen. Các yếu tố cấu tạo
chính, dương hoặc âm ở bể Phú Khánh được
hình thành trong pha đồng tạo rift chính,
với trường ứng suất dọc và ngang chiếm
ưu thế trong vùng. Tuy nhiên biến dạng
nén ép cũng xảy ra ở một vài đứt gãy trượt
bằng (strike-slip faults) kết hợp với nén ép
nghiêng. Sự căng giãn và sụt lún đồng thời
với tách giãn của bể Phú Khánh được diễn
ra song hành với hoạt động trầm đọng vật
liệu vụn thô và vật liệu phun trào. Giai đoạn
nâng lên được kết thúc bằng một bất chỉnh
hợp bào mòn mang tính khu vực ở giới hạn
tiếp xúc giữa Oligocen - Miocen, đánh dấu
cho tính phân dị của các hoạt động kiến tạo
trong vùng (Hình 8.7). Tuy nhiên cũng có ý
kiến cho rằng ở bể Phú Khánh giai đoạn syn
rift có thể còn phát triển trong Miocen sớm
(rift muộn), đó là vấn đề cần làm sáng tỏ
Hình 8.4. Mặt cắt địa chấn tuyến VOR-301 chạy dọc bể Phú Khánh, từ vĩ tuyến 11 đến vĩ tuyến 14
243
Chương 8. Bể Phú Khánh và tài nguyên dầu khí
trong thời gian tới
Lún chìm khu vực sau tạo rift
Vào Miocen sớm bắt đầu hoạt động lún
chìm nhiệt; phát triển từ từ về phía Đông
và được xem là thời điểm bắt đầu của hoạt
động sau rift. Việc giảm tốc độ nâng trồi về
phía Đông Nam của khối Indochina trong
giai đoạn này làm cho hoạt động trượt
bằng trái ở đứt gãy sông Hồng cũng giảm
và đánh dấu sự chấm dứt hiện tượng quay
các khối trên diện rộng. Phương căng giãn
biển Đông được chuyển đổi từ bắc - nam
sang tây bắc - đông nam và hiện tượng đảo
ngược của khu vực hút chìm Biển Đông từ
hướng về phía Đông sang hướng về phía
Tây cũng xảy ra trong thời gian này. Vào
giai đoạn giữa và cuối của Miocen giữa có
hai biến cố kiến tạo đáng chú ý đã xảy ra
đánh dấu bằng hiện tượng đảo ngược nội bể
mà nguyên nhân chính có lẽ liên quan tới
sự va chạm giữa hai mảng Á - Úc kéo theo
sự hình thành các giai đoạn bào mòn hoặc
không lắng đọng trầm tích rất điển hình, thể
hiện bằng các bất chỉnh hợp rõ ràng trên
các lát cắt địa chấn. Trong Miocen giữa
trường ứng suất chủ đạo là nén ép ngang,
dẫn tới sự nghịch đảo kiến tạo, hình thành
các cấu tạo hình hoa trong các loạt trầm
tích. Dọc theo một số đứt gãy lớn cắt ngang
sườn nghiêng của bể Phú Khánh đồng thời
cũng xảy ra các biến dạng ứng suất ngang
rất đặc trưng.
Trong Miocen muộn toàn bộ khu vực
biển Đông chủ yếu chịu lực nén ép, lực này
cùng với hệ đứt gãy trượt bằng phải ở thềm
lục địa Việt Nam có lẽ đã trở thành động
lực tạo ra sự nâng lên tạm thời cũng như
sự đảo ngược từng phần của bể Phú Khánh
vào cuối Miocen muộn tạo mặt bào mòn
mang tính địa phương (Hình 8.8).
Vào Pliocen hoạt động biển tiến ảnh
hưởng rộng khắp khu vực biển Đông. Cũng
như các bể khác trong khu vực, bể Phú
Khánh được các thành tạo trẻ Pliocen - Đệ
Tứ phủ bất chỉnh hợp lên trên mặt bào mòn
Miocen muộn, nhưng vì thời gian và mức
độ bào mòn không lớn nên ranh giới giữa
Miocen muộn và Pliocen rất khó xác định
Hình 8.5. Mặt cắt địa chấn tuyến PK-03-084, qua đới cắt trượt Tuy Hoà
244
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
trên các mặt cắt địa chấn.
Ngoài quan điểm nêu trên đây, nhóm
các nhà địa chất ở trường Đại học khoa học
tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội (Phan
Văn Quýnh, Tạ Trọng Thắng) cho rằng bể
Phú Khánh hình thành trên các võng tạo
núi đầu Paleogen với sự lấp đầy các thành
tạo molas lục địa (pha tạo núi cách đây 50
triệu năm) và cấu trúc bể được hình thành,
phát triển trên cơ chế chính là kéo toác dọc
theo các đới biến dạng ranh giới nêm thúc
trồi (extrusion) Indochina.
3.3. Đặc điểm đứt gãy
Bể Phú Khánh được hình thành và bị
chi phối bởi 3 hệ thống đứt gãy chính: hệ
đứt gãy Đông Bắc - Tây Nam ở phía Bắc,
hệ đứt gãy Bắc - Nam dọc thềm Đà Nẵng
(kinh tuyến 109O30) và hệ thống đứt gãy
Tây Bắc - Đông Nam ở phía Nam. Riêng hệ
đứt gãy Bắc - Nam được một số tác giả chia
thành 3 đứt gãy song song nhau, dọc theo
kinh tuyến 109O30’, 110O10‘ và 110O20’.
Các hệ đứt gãy này tạo ra các trũng sâu
trong móng, khống chế các trung tâm tích
tụ chính. Do bể Phú Khánh được hình thành
chủ yếu bởi trường ứng suất căng ngang,
phát triển dọc theo đới cắt trượt lớn, lại
nằm ở ranh giới tiếp xúc giữa một bên là
khối lục địa tương đối rắn chắc và một bên
là đới tách giãn động của biển Đông, sự
khác nhau trong kiểu kiến tạo của các hệ
đứt gãy rất rõ ràng và có khả năng đó là kết
quả của sự thay đổi ứng suất trên các đoạn
bị đứt gãy với sự thay đổi phương đường nứt
trong khu vực đới cắt trượt lớn.
Trong pha kiến tạo tiếp theo, các đứt
gãy (kéo căng) thuận phát triển dọc theo
rìa thềm và kế thừa khuynh hướng của các
phĩ l ©m
s«ng cÇu
chÝ t hanh
l a hai
tuy hßa
v¹n gi·
diª n kh¸nh nha trang
ninh hßa
phï mü
Ng« m©y
b×nh §Þnh
quy nh¬n
t uy ph−íc
Ë p ®¸
diª u t r×
ba ngßi
122
123
124
125
126
VOR-93-101
VOR-93-102
VOR-93-107
VOR 93 116
VO
R
-93-202
Hình 8.6. Sơ đồ đẳng sâu móng âm học bể Phú
Khánh
phĩ l ©m
s«ng cÇu
chÝ t hanh
l a hai
tuy hßa
v¹n gi·
diª n kh¸nh nha trang
ninh hßa
phï mü
Ng« m©y
b×nh §Þnh
quy nh¬n
t uy ph−íc
Ë p ®¸
diª u t r×
ba ngßi
122
123
124
125
126
VOR-93-101
VOR-93-102
VOR-93-107
VOR 93 116
VO
R
-93-202
Hình 8.7. Sơ đồ đẳng sâu nóc Oligocen trên bể Phú
Khánh
245
Chương 8. Bể Phú Khánh và tài nguyên dầu khí
đới đứt gãy cổ hơn.
4. Địa tầng
Như đã nêu ở phần đầu, trong bể Phú
Khánh chưa có giếng khoan. Vì vậy việc
phân chia địa tầng, xác định các mặt bất
chỉnh hợp v.v... đều dựa trên các kết quả
minh giải và liên kết tài liệu địa vật lý,
chủ yếu là địa chấn phản xạ với các giếng
khoan ở bể Sông Hồng, Cửu Long và Nam
Côn Sơn. Do đó, vị trí các giới hạn phân
chia địa tầng giữa các tác giả có khác nhau.
Để giải quyết sự sai khác này cần phải chờ
có kết quả khoan trong vùng. Theo minh
giải tài liệu địa chấn trầm tích Đệ Tam có
chiều dày thay đổi từ 500 m dọc theo rìa
phía Tây đến 7.000 - 8.000 m ở vùng trũng
sâu phía Đông bể. Dưới đây là địa tầng dự
báo bể Phú Khánh (Hình 8.9).
4.1. Móng trước Đệ Tam
Móng trước Đệ Tam ở bể Phú Khánh là
các thành tạo magma, biến chất có tuổi và
thành phần khác nhau, trong đó các thành
tạo granit tuổi Creta bị phong hóa, nứt nẻ
có khả năng phát triển rộng ở vùng thềm
Phan Rang, đới cắt trượt Tuy Hòa và thềm
Đà Nẵng.
4.2. Paleocen - Eocen?
Trầm tích Paleocen - Eocen (?) được
thành tạo trong các graben, bán graben với
thành phần chính là các trầm tích hạt thô,
sạn cuội kết ở phần đáy. Trên tài liệu địa
chấn chúng được phản ánh bởi các tập sóng
phản xạ có độ liên tục kém, biên độ trung
bình đến cao.
4.3. Oligocen
Các trầm tích Oligocen phủ bất chỉnh
hợp trên các trầm tích Eocen gồm các thành
tạo mịn hơn như cát, sét, đôi khi xen ít lớp
than. Trên mặt cắt địa chấn trầm tích này
được xếp vào tập sóng phản xạ có độ liên
tục kém, biên độ trung bình, tần số thấp,
có nơi phản xạ dạng lộn xộn, biên độ cao.
Bề dày trầm tích thay đổi từ vài trăm mét ở
phần rìa đến hàng nghìn mét ở phần trung
tâm bể. Các lớp sét than đen giàu vật chất
hữu cơ, nguồn gốc đầm hồ và đầm nước lợ
là nguồn đá mẹ tiềm năng trong bể Phú
Khánh.
4.4. Miocen
Các trầm tích Miocen chủ yếu là các
trầm tích lục nguyên, châu thổ, xen các pha
biển và biển nông. Phần phía Đông thềm
Đà Nẵng, Phan Rang phát triển đá vôi dạng
thềm, đá vôi ám tiêu. Có thể phân ra trầm
tích Miocen dưới, giữa và trên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_8_1204.pdf