Đáy biển hiện đại của vùng TLĐTN không vượt quá 50 - 70m nước, trầm tích đáy được hình thành chủ yếu do sóng biển và tác động của dòng thuỷ triều, các vật liệu trầm tích phù sa đưa từ sông không đáng kể ; ở khu vực Hà Tiên - Phú Quốc quá trình thành tạo đáy biển còn chịu ảnh hưởng của quá trình phong hoá hoá học. Về phía ĐN có một số vịnh nhỏ khá sâu đâm thẳng vào bờ tạo nên vùng chìm xuống ở khu vực cửa sông. Về phía TB bờ vũng vịnh đặc trưng bởi các dải đá ngầm, địa hình khá phức tạp, tồn tại nhiều bãi san hô, đặc biệt là ở vùng các đảo Phú Quốc và Thổ Chu.
39 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 2197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bể trầm tích Malay - Thổ Chu và tài nguyên dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Bể trầm tích
Malay-Thổ Chu
và
tài nguyên
dầu khí
11
359
Chương 11. Bể trầm tích Malay - Thổ Chu và tài nguyên dầu khí
Bể Malay - Thổ Chu nằm ở vịnh Thái
Lan, phía Đông là vùng biển Tây Nam
Việt Nam, phía Đông Bắc là vùng biển
Campuchia, phía Tây Bắc và Tây là vùng
biển Thái Lan và phía Tây Nam là vùng
biển Malaysia (Hình 11.1). Về cấu trúc, bể
1. Giới thiệu
Hình 11.1. Thềm lục địa Tây Nam Việt Nam trong khung cảnh vịnh Thái Lan
(Theo tài liệu của Fina Exp.Minh Hải,1992; Phùng Sĩ Tài, 2001)
360
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
có dạng kéo dài theo hướng tây bắc - đông
nam, tiếp giáp với bể Pattani phía Tây Bắc,
bể Penyu phía Nam và bể Tây Natuna phía
Đông Nam, còn phía Đông là đới nâng
Khorat-Natuna. Chiều dày tầng trầm tích
của bể có thể đạt đến 14 km [22]. Thềm
lục địa Tây Nam Việt Nam (TLĐTN) là
vùng rìa Đông Bắc của bể Malay - Thổ
Chu, kéo dài theo hướng TB - ĐN với diện
tích khoảng 100.000 km2, chiếm xấp xỉ
31% tổng diện tích vùng biển chung, bao
gồm các lô 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 46,
48/95, 50, 51, B, 52/97.
Đáy biển hiện đại của vùng TLĐTN
không vượt quá 50 - 70m nước, trầm tích
đáy được hình thành chủ yếu do sóng biển
và tác động của dòng thuỷ triều, các vật
liệu trầm tích phù sa đưa từ sông không
đáng kể ; ở khu vực Hà Tiên - Phú Quốc
quá trình thành tạo đáy biển còn chịu ảnh
hưởng của quá trình phong hoá hoá học. Về
phía ĐN có một số vịnh nhỏ khá sâu đâm
thẳng vào bờ tạo nên vùng chìm xuống ở
khu vực cửa sông. Về phía TB bờ vũng vịnh
đặc trưng bởi các dải đá ngầm, địa hình khá
phức tạp, tồn tại nhiều bãi san hô, đặc biệt
là ở vùng các đảo Phú Quốc và Thổ Chu.
Bể Malay - Thổ Chu là bể trầm tích có
tiềm năng dầu khí lớn trong khu vực. Từ rất
sớm ở đây đã có các hoạt động tìm kiếm
thăm dò và khai thác dầu khí và hiện nay
là vùng khá hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực này này.
2. Lịch sử nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò
và khai thác dầu khí
Ngay từ thập kỷ 60 các công ty dầu
khí quốc tế lớn như Total, Mobil, Esso,
Unocal,... đã quan tâm đầu tư tìm kiếm thăm
dò dầu khí ở vùng vịnh Thái Lan. Song các
hoạt động nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò
dầu khí ở phần TLĐTN được triển khai
muộn hơn so với các vùng chung quanh.
Từ năm1973 công tác tìm kiếm bắt đầu
bằng khảo sát 1.790 km tuyến địa vật lý
của Mandrel với mạng lưới 50km x 50km;
năm 1980 tàu địa vật lý Liên Xô (cũ) đã
khảo sát 1.780 km tuyến địa chấn khu vực
với mạng lưới 65 km x 65 km. Năm 1988
tàu địa vật lý “Viện sỹ Gubkin” đã khảo
sát 4.000 km tuyến địa chấn, từ và trọng
lực thành tàu với mạng lưới 20km x 30km
và 30km x 40km trên diện tích 58.000 km2.
Từ năm 1990 nhà thầu FINA đã tiến hành
khảo sát 11.076 km tuyến địa chấn (VF-90)
trên phần lớn diện tích thuộc TLĐTN (gồm
8 lô 46, 47, 48, 50, 51, 53, 54, 55) nhằm
đánh giá tổng quan triển vọng dầu khí của
vùng này để lựa chọn các lô ký hợp đồng
PSC. Trên cơ sở đó năm 1991 PETROFINA
đã ký hợp đồng chia sản phẩm (PSC) với
PETROVIETNAM trên các lô 46, 50, 51.
FINA đã khảo sát bổ sung 4.000 km tuyến
địa chấn 2D (VF92) và 466 km2 địa chấn
3D. Sau đó PETROFINA đã tìm kiếm thăm
dò trên các lô nói trên, trong đó có nhiều
giếng phát hiện dầu khí.
Công ty Unocal (Mỹ) đã ký hợp đồng
PSC với Tổng công ty Dầu Khí Việt Nam ở
các lô B (1996) và lô 48/95 (1998). Unocal
đã khảo sát 4.663 km tuyến địa chấn 2D
với mạng lưới chi tiết 0. 5 km x 0. 5 km và
1.264 km2 địa chấn 3D. Năm 1997 công ty
này đã tiến hành khoan thăm dò 2 giếng
B-KQ-1X và B-KL-1X, trong đó giếng B-
KL-1X đã phát hiện khí công nghiệp và đã
chuyển sang giai đoạn thẩm lượng cho lô
này. Năm 1999 Unocal đã ký hợp đồng PSC
361
Chương 11. Bể trầm tích Malay - Thổ Chu và tài nguyên dầu khí
lô 52/97 và đã tiến hành khảo sát 1.813 km2
địa chấn 3D. Năm 2000 Unocal đã khoan
thăm dò phát hiện khí ở cấu tạo Ác Quỷ,
Cá Voi và năm 2004 phát hiện khí ở cấu
tạo Vàng Đen.
PM-3 là vùng thoả thuận thương mại
giữa Việt Nam và Malaysia (CAA). Tại đây
nhà thầu IPC sau đó là Lundin đã tiến hành
thăm dò và đã phát hiện hàng loạt các cấu
tạo chứa dầu khí như Bunga Kekwa, Bunga
Raya, Bunga Orkid. . . Trong đó mỏ dầu khí
Bunga Kekwa - Cái Nước đã đưa vào khai
thác từ năm 1997. Đến nay đã đưa thêm 2
mỏ nữa vào khai thác là Bunga Raya và
Bunga Seroja.
3. Đặc điểm cấu kiến tạo
3.1. Phân tầng cấu trúc
Cấu trúc địa chất bể Malay - Thổ Chu
có đặc điểm chung của các bể trầm tích
Việt Nam là có hai tầng chính: Trước Đệ
Tam và Đệ Tam [20,25,26].
Tầng cấu trúc trước Đệ Tam (Hình
11.2) được thành tạo bởi nhiều pha khác
nhau trong thời kỳ trước Rift bị uốn nếp và
phân dị mạnh bởi các hệ thống đứt gãy với
các hướng khác nhau, có thành phần thạch
học không đồng nhất và có tuổi khác nhau
ở các bể trầm tích [2, 3, 5]. Tầng này bao
gồm toàn bộ phức hệ móng cố kết, biến
tính carbonat, đá phun trào, xâm nhập có
tuổi Paleozoi, Mesozoi. Phức hệ này lộ ra
và quan sát thấy ở các đảo và vùng ven rìa
Tây Nam Bộ.
Trong các giếng khoan do công ty Fina
(lô 46, 50, 51) và Unocal (lô B, 48/95, 52)
thực hiện mới chỉ gặp đá móng trước Đệ
Tam tại một số khu vực ở các đới nâng cao
thuộc rìa B - ĐB của bể. Đá móng gặp tại
đây chủ yếu là các đá biến chất ở mức độ
Hình 11.2. Lược đồ mặt cắt ngang qua Thềm lục địa Tây Nam Việt Nam
(Theo tài liệu của Fina Exp.Minh Hải,1992; Phùng Sĩ Tài,2001)
362
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
thấp thuộc tướng đá phiến lục, đá phylit,
phiến sericit xen kẽ cát bột kết dạng quarzit
(46-CN-1X, 46-KL. 1X, B-KQ. 1X) có thể
thuộc loạt Khorat tuổi Mesozoi. Đá vôi tuổi
từ Carbon muộn đến Jura đã được phát hiện
trong giếng khoan Bunga Raya (lô PM-3).
Tuy nhiên, nghiên cứu địa chất khu vực
Hà Tiên và các đảo trong vùng cho phép
dự đoán tuổi của đá vôi và lục nguyên là
Paleozoi và Mesozoi. Ở bể Malay - Thổ
Chu đá móng chủ yếu là các đá lục nguyên
biến chất ở mức độ thấp, đá vôi tuổi từ
Carbon muộn đến Jura [5]. Tầng móng
trước Đệ Tam được đánh dấu bằng tập địa
chấn SHB và nhận biết được bởi các đặc
trưng trường sóng địa chấn yếu hoặc không
có phản xạ, hỗn độn không phân dị hoặc
phân dị kém [4].
Tầng cấu trúc Đệ Tam là tầng trầm
tích Paleogen - Neogen - Q, phủ trực tiếp
lên tầng móng tuổi trước Đệ Tam, hình
thành và phát triển cùng quá trình thành
tạo bể Đệ Tam từ Oligocen đến hiện đại.
Trầm tích Đệ Tam trong bể Malay - Thổ
Chu chủ yếu là lục nguyên có nơi dày 9
- 14 km. Trong đó phần TLĐTN có chiều
dày trầm tích Đệ Tam lớn nhất khoảng
4.000 m. Trầm tích Oligocen gồm chủ yếu
là sét kết xen kẽ với những lớp mỏng bột
kết, cát kết và các lớp than, đôi chỗ có
các lớp đá carbonat màu trắng, cứng chắc.
Trầm tích Miocen bao gồm chủ yếu là sét
kết xám xanh, xám sáng xen kẽ các lớp
cát kết hạt mịn xen kẻ ít than. Trầm tích
Pliocen phân bố rộng khắp trong bể và có
chiều dày tương đối ổn định, phủ bất chỉnh
hợp theo kiểu kề áp, tựa đáy, cắt cụt trên
trầm tích Miocen, có thành phần thạch học
gồm sét, bột xám, xám xanh mềm dẻo xen
các lớp cát bở rời, chủ yếu hạt nhỏ, đôi chỗ
hạt trung, thô. Dựa vào đặc điểm cấu trúc
và lịch sử phát triển của các phức hệ địa
chất, tầng cấu trúc này có thể phân chia ra
các phụ tầng cấu trúc: Oligocen, Miocen và
Pliocen - Đệ Tứ.
3.2. Các yếu tố cấu trúc và kiến tạo
3.2.1. Các đơn vị cấu trúc
Cùng với các bể trầm tích chính ở Vịnh
Thái Lan như thềm Khơme và trũng Pattani
(Petroconsultant 1988), bể Malay - Thổ
Chu được hình thành do quá trình tách giãn
kéo toác dưới ảnh hưởng của đứt gãy Three
Pagodas. Hệ thống đứt gãy của bể ở phía
Bắc chủ yếu có hướng kinh tuyến, còn phía
Nam chủ yếu là hướng TB - ĐN với các cấu
trúc chính: Đơn nghiêng ĐB, Đơn nghiêng
TN, Địa hào ĐB, Địa luỹ Trung tâm và Địa
hào Trung tâm.
TLĐTN là nơi gặp nhau của trũng
Pattani có hướng cấu trúc bắc - nam và
bể Malay - Thổ Chu có hướng TB - ĐN.
Vì thế, đặc điểm cấu trúc địa chất và tiềm
năng dầu khí ở đây bị chi phối và khống
chế bởi sự hình thành và phát triển của các
bể trên.
Rìa Đông Bắc bể Malay - Thổ Chu có
thể được chia thành các đơn vị cấu trúc sau
(Hình 11.3):
Đơn nghiêng bình ổn Tây Bắc bao
gồm diện tích các lô A, phần phía Đông lô
50. Đơn nghiêng bình ổn được giới hạn bởi
hàng loạt các đứt gãy thuận theo dạng bậc
thang có hướng BTB - NĐN. Ở đây các nếp
uốn được hình thành do các hoạt động xoắn
liên quan đến chuyển động bề mặt đứt gãy
căng giãn chính. Ở khu vực này, đặc biệt là
lô A, tồn tại các khối nâng cổ. Đó là hệ quả
363
Chương 11. Bể trầm tích Malay - Thổ Chu và tài nguyên dầu khí
của quá trình san bằng và bào mòn với mức
độ khác nhau, có tính cục bộ các trầm tích
và móng kết tinh trước Đệ Tam.
Đơn nghiêng phân dị Đông Bắc là
dải kéo dài từ lô 51 đến lô 46, giáp với
vùng chồng lấn giữa Việt Nam - Thái Lan
- Malaysia và Việt Nam - Malaysia; ở đây
đơn nghiêng phân dị Đông Bắc được thay
thế bới các rift và đơn nghiêng cách biệt.
Các đứt gãy hướng TB - ĐN có liên quan
đến pha tách giãn chính Oligocen của bể và
các đứt gãy hướng Đ - T có liên quan đến
các hoạt động yếu dần của móng trong thời
kỳ nén ép vào cuối Creta muộn. Những đứt
gãy này được tái hoạt động trong thời kỳ
căng giãn nội lực và tách giãn Oligocen.
Đới phân dị địa hào - địa luỹ BTB –
NĐN: Tại đây địa lũy hướng BTB - NĐN
được kẹp giữa hai địa hào với chiều dày
trầm tích Kainozoi đạt từ 6 đến 7 km. Phần
phía Tây, khối nâng móng tiếp giáp với địa
hào phía Tây. Khối nâng này được hình
thành do quá trình bóc mòn, phân dị các
thành tạo trước Đệ Tam có góc cắm lớn. Bể
Malay - Thổ Chu tiếp tục phát triển ở phần
phía Tây, do móng sụt bậc về phía Tây.
Tất cả các đơn vị cấu trúc trình bày ở
trên cũng được thể hiện rõ nét trên bình đồ
cấu tạo các tầng Móng Đệ Tam, Oligocen
và Miocen (Hình11.4; 11.5; 11.6).
3.2.2. Đặc điểm đứt gãy
Hệ thống đứt gãy của bể Malay - Thổ
Chu hình thành và chịu sự chi phối của các
hệ thống đứt gãy trượt bằng khu vực chính
có hướng tây bắc - đông nam là:
• Hệ thống đứt gãy Hinge.
• Hệ thống đứt gãy Three Pagoda.
• Các đới phá huỷ chính hướng bắc – nam
Hình 11.3. Sơ đồ các yếu tố cấu trúc móng Đệ Tam bể Malay-Thổ Chu.
(Theo tài liệu của Fina Exp.Minh Hải,1992; Phùng Sĩ Tài,2001)
364
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
được xác định bởi các hệ đứt gãy:
• Hệ thống đứt gãy Bergading-Kapal.
• Hệ thống đứt gãy Dulang
• Hệ thống đứt gãy Laba-Mesah
Về phía rìa Bắc của bể, hệ thống đứt gãy
Dulang và Laba-Mesah chuyển sang hướng
tây bắc - đông nam và tạo nên một loạt các
trũng hẹp kiểu kéo toác (Hình 11.7).
Ở khu vực TLĐTN hệ thống đứt gãy
chủ yếu là đứt gãy thuận có phương B - N,
TB - ĐN. Ngoài ra còn có một số đứt gãy
theo phương á vĩ tuyến. Chính các hệ thống
đứt gãy này đã tạo nên kiểu cấu trúc sụt
bậc nghiêng về phía trung tâm bể và hình
thành các địa hào và bán địa hào xen kẽ
nhau.
Các đứt gãy phương B - N là đứt gãy
thuận, xuyên cắt từ móng với biên dộ dịch
chuyển từ vài chục mét đến hàng nghìn
mét. Chúng hoạt động và phát triển đến
cuối thời kỳ Miocen, thậm chí có đứt gãy
hoạt động đến tận Pliocen. Hoạt động
Hình 11.4. Bình đồ cấu tạo tầng móng Đệ Tam
(Theo tài liệu của Phùng Sĩ Tài,2001)
Hình 11.5.Bình đồ đẳng sâu nóc Oligocen
(Theo tài liệu của Phùng Sĩ Tài,2001)
Hình 11.6. Bình đồ đẳng sâu nóc Miocen
(Theo tài liệu của Phùng Sĩ Tài,2001)
365
Chương 11. Bể trầm tích Malay - Thổ Chu và tài nguyên dầu khí
của hệ thống đứt gãy B - N làm cho đơn
nghiêng có sự sụt bậc về phía Tây và hình
thành một loạt nếp lồi, lõm xen kẽ nhau
theo phương đứt gãy.
Các đứt gãy có phương á vĩ tuyến và á
kinh tuyến được phát hiện chủ yếu ở các lô
45, 46, 51. Các đứt gãy trên diện tích các lô
45 – 51 hoạt động mạnh mẽ từ móng cho
đến hết thời kỳ Miocen, một số thậm chí
phát triển đến tận Pliocen.
3.3. Lịch sử phát triển địa chất
Lịch sử địa chất Đệ Tam bể Malay -
Thổ Chu nằm trong tiến trình phát triển địa
chất chung của các bể trầm tích khu vực
Đông Nam Á và Việt Nam, có thể được
chia thành các giai đoạn chính:
Giai đoạn tạo rift Eocen (?) - Oligocen.
Hoạt động kiến tạo chủ yếu tác động
mạnh mẽ đến khu vực nghiên cứu là quá
trình tách giãn nội lục (Intra-Cratonic rifting
[21]) hay còn gọi là giai đoạn đồng tạo rift
tạo nên các bồn trầm tích Đệ Tam chủ yếu
ở bể Malay - Thổ Chu và trũng Pattani.
Quá trình tách giãn Eocen (?) - Oligocen
xảy ra dọc theo đới cấu trúc Trias cổ, dẫn
đến việc hình thành hàng loạt các đứt gãy
Hình 11.7. Các hệ thống đứt gãy chính của bể Malay-Thổ Chu
(Theo tài liệu của Fina Exp. Minh Hải, 1992; Phùng Sĩ Tài, 2001)
366
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
thuận có hướng B - N ở phần Bắc vịnh Thái
Lan và đứt gãy có hưỡng TB - ĐN ở bể
Malay - Thổ Chu. Ban đầu quá trình trầm
tích bị ngăn cách bởi các bán graben (half
graben), sau đó trầm tích là các thành tạo
lục nguyên có tướng lục địa - đầm hồ, tam
giác châu và biển ven bờ lấp đầy các bể
phụ mở rộng, bao gồm chủ yếu là cát sét,
các tập bồi tích (fluviolacustrine), trầm tích
dòng xoáy (braided streams); trầm tích cổ
nhất là Oligocen. Do các đứt gãy phát triển
từ móng trước Kainozoi, nên các thành tạo
Oligocen thường bị phân dị, chia cắt mặt địa
hình cổ thành các đới nâng hạ không đều
của móng trước Kainozoi tạo ra một hình
thái kiến trúc hết sức phức tạp (Hình 11.8).
Vào cuối Oligocen do chuyển động nâng
lên, quá trình trầm tích bị gián đoạn và bóc
mòn. Sự kiện này được đánh dấu bởi bất
chỉnh hợp cuối Oligocen đầu Miocen sớm.
Giai đoạn sau tạo rift Miocen - Đệ Tứ
Miocen sớm bắt đầu bằng pha lún chìm,
oằn võng - biển tiến, đây chính là giai đoạn
đặc trưng cho pha chuyển tiếp từ đồng tạo
rift đến sau tạo rift [21,22].
Hình 11.8. Sơ đồ lịch sử phát triển địa chất bể Malay-Thổ Chu
(Theo tài liệu của Fina Exp. Minh Hải, 1992; Phùng Sĩ Tài, 2001)
367
Chương 11. Bể trầm tích Malay - Thổ Chu và tài nguyên dầu khí
Vào Miocen giữa tiếp tục thời kỳ lún
chìm của bể mà nguyên nhân chủ yếu là
do co rút nhiệt của thạch quyển. Hoạt động
giao thoa kiến tạo do sự thay đổi hướng hút
chìm của mảng Ấn Độ theo hướng ĐB và
chuyển động của mảng Úc lên phía Bắc vào
cuối Miocen giữa - đầu Miocen muộn có
thể là nguyên nhân của chuyển động nâng
lên và dẫn tới việc hình thành bất chỉnh hợp
Miocen giữa. Trên cơ sở kết quả định tuổi
của tập basalt liên quan tới bất chỉnh hợp
chính ở bể Phisanulok, tuổi của bất chỉnh
hợp trên là 10. 4 triệu/năm (Legendre và
nnk,1988).
Thời kỳ từ cuối Miocen muộn đến hiện
tại là pha cuối cùng của tiến trình phát triển
bể, đó là sự tiếp tục của giai đoạn sau tạo
rift.
Vào Pliocen - Đệ Tứ, quá trình sụt lún
chậm dần và ổn định, biển tiến rộng khắp,
mạnh mẽ, còn bể, các địa hào và các phụ
bể lân cận trong cùng vịnh Thái Lan được
liên thông với nhau. Lớp phủ trầm tích hầu
như nằm ngang, không bị tác động lớn bởi
các hoạt động đứt gãy hay nếp uốn và tạo
nên hình thái cấu trúc hiện tại của khu vực
này [4].
4. Địa tầng và môi trường trầm tích
4.1. Địa tầng trầm tích
Địa tầng trầm tích Đệ Tam (Hình 11.9)
đã được nhiều tác giả/cơ quan nghiên cứu
(Fina 1992-1999, Đỗ Bạt, Phan Huy Quynh
và n. n. k. 1992-2001. . . ), song công trình
nghiên cứu gần đây của Viện Dầu Khí Việt
Nam [4] đã tổng hợp có hệ thống Địa tầng
Đệ Tam của khu vực này. Chi tiết về địa
tầng bể Malay - Thổ Chu có thể xem ở
chương 6 của sách này. Nội dung cơ bản
về địa tầng có thể tóm tắt như trong bảng
11.1.
PALEOGEN
Oligocen
Hệ tầng Kim Long (E3 kl)
Hệ tầng Kim Long phủ bất chỉnh hợp
lên móng Trước Đệ Tam có tuổi và thành
phần khác nhau. Các trầm tích của hệ tầng
này thường phân bố chủ yếu trong các địa
hào và sườn của các cấu tạo và được phân
cách bởi các đứt gãy có hướng ĐB - TN và
BN với chiều dày thay đổi từ 500 - 1.000
m.
Mặt cắt của hệ tầng gồm chủ yếu là sét
kết xen kẽ với những lớp mỏng bột kết, cát
kết và các lớp than, đôi chỗ có các lớp đá
carbonat màu trắng, rắn chắc dạng vi hạt.
Tại một số khu vực nâng cao (Lô 51, 46)
trong phần dưới của lát cắt tỷ lệ cát kết với
kích thước hạt tăng nhiều so với các khu
vực khác. Phần lớn trầm tích của hệ tầng
được thành tạo trong điều kiện môi trường
đồng bằng châu thổ đến hồ đầm lầy và ở
phần trên của mặt cắt có chịu ảnh hưởng
của các yếu tố biển. Sét kết màu xám, xám
lục, xám đen, xám nâu hoặc nâu tối gắn kết
trung bình đến tốt, phân lớp dày đến dạng
khối, nhiều nơi có chứa vôi, pyrit, vật chất
hữu cơ chứa than hoặc xen kẽ các lớp than
màu đen đến nâu đen. Thành phần khoáng
vật sét chủ yếu là kaolinit và hydromica
cùng một lượng nhỏ clorit. Tập đá sét giàu
vật chất hữu cơ có chứa than được xem như
là tầng sinh dầu và đôi chỗ nó cũng đóng
vai trò là các tầng chắn mang tính chất địa
phương.
Cát kết chủ yếu hạt nhỏ đến trung bình,
đôi khi hạt thô hoặc sạn kết màu xám nhạt
368
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
đến xám nâu. Hạt vụn bán góc cạnh đến
bán tròn cạnh, độ lựa chọn mài tròn của hạt
vụn thay đổi từ kém đến trung bình tốt hoặc
tốt, gắn kết bởi xi măng giàu carbonat (gồm
cả dolomit và calcit), sét và thạch anh. Xi
măng thạch anh khá phát triển trong các đá
cát kết ở độ sâu > 3.300 m. Cát kết có thành
phần chính là thạch anh (trong một số giếng
Bảng 11.1. Đặc điểm địa tầng bể Malay-Thổ Chu
(Theo số liệu của Fina Exp. Minh Hai, 1992; Đỗ Bạt và Phùng Sĩ Tài, 2001)
§ í i cỉ sinh T Ëp ®Þa chÊn
T uỉi ®Þa chÊt
§Þ
a
tÇ
ng
BỊ
d
Çy
(m
Ð
t)
D
Çu
/K
hÝ
M«i
tr- êng
trÇm
tÝch
F oram
Nan-
no
B T PH V
P
I
F
IN
A
V
P
I
E
SS
O
Pleistocen- Q
SÐ
t
kÕ
t
C
¸t
k
Õt
50-
500
B
iĨ
n
th
Ịm
N
19
-
N
21
D
ac
ry
di
um
T1
Pl
io
ce
n
B
iĨ
n
§
«n
g
?
N
2
B
®
150-
1000
§
ån
g
b»
ng
ve
n
bi
Ĩn
B
iĨ
n
m
ë
N
16
-N
18
(N
16
-N
19
)*
N
N
12
-N
N
15
F.
M
er
id
io
na
lis
M
L
-T
C
1
A
B
M
in
h
H
¶i
N
13
SÐ
t k
Õt
x
¸m
s
¸n
g,
c¸
t b
ét
xe
n
kÏ
c
¸c
v
Øa
th
an
m
án
g
390-
1200
B
iĨ
n
n«
ng
,
®å
ng
b
»n
g
ch
©u
th
ỉ
N
9-
N
13
(N
9-
14
)*
N
N
10
-N
N
11
F.
M
er
id
io
na
lis
St
en
oc
la
en
a
A
nt
ho
ce
ris
-p
or
ite
s
M
L
-T
C
2
T2
D
T3
E
F
§
Çm
D
¬i
N
12
900-
1500 •
•
°
°
§
ån
g
b»
ng
,
ch
©u
th
ỉ
bi
Ĩn
n
«n
g
A
m
m
on
ia
T
ro
ch
am
in
a
N
8
(N
9-
14
)*
N
N
6-
N
N
9
F.
M
er
id
io
na
lis
F.
Le
vi
po
li
M
L
-T
C
3
T4
H
I
T5
J
N
E
O
G
E
N
M
io
ce
n
N
gä
c
H
iĨ
n
N
11
SÐ
t k
Õt
x
¸m
x
an
h,
n©
u,
c¸
t k
Õt
b
ét
kÕ
t,
th
an
p
hÇ
n
d
íi
s
Ðt
d
¹n
g
kh
èi
500-
1000 •
•
°
§
ån
g
b»
ng
ve
n
bi
Ĩn
(N
6-
N
8)
*
N
N
4
(N
N
2-
N
N
4)
*
F.
Le
vi
po
li
Ec
hi
pe
ris
po
ri
-t
es
M
ag
na
st
M
L
-T
C
4
K
T6 L
§
Ư
T
A
M
PA
L
E
O
G
E
N
O
li
go
ce
n
K
im
L
on
g
E
3
SÐ
t k
Õt
x
¸m
n
©u
,-
c¸
t k
Õt
-b
ét
kÕ
t n
©u
,p
hí
t t
Ým
-C
¸t
k
Õt
-§
¸
ph
iÕ
n
sÐ
t n
©u
x
¸m
-T
ha
n
°
° •
°
§
Çm
h
å
(N
2-
N
4)
*
F.
Tr
ilo
ba
ta
M
ag
na
st
ria
tit
es
M
L
-T
C
5
T7 M
T
r
íc
§
Ư
T
a
m
§
¸
bi
Õn
ch
Êt
Q
ua
rz
it
,s
Ðt
kÕ
t b
iÕ
n
ch
Êt
, b
ét
kÕ
t b
iÕ
n
ch
Êt
m SH
B
369
Chương 11. Bể trầm tích Malay - Thổ Chu và tài nguyên dầu khí
Hình 11.9. Cột địa tầng tổng hợp bể Malay-Thổ Chu
(Tổng hợp theo LML, 1998; Petronas, 1999; Gilmont, 2001 và Truongson JOC, 2003)
370
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
khoan ở lô B, 48/95 và lô 52). Ở phần dưới
của hệ tầng xuất hiện các lớp cát kết thạch
anh tương đối sạch và đơn khoáng với tỷ lệ
thạch anh đôi khi vượt quá 80%), felspat
và mảnh đá (nhiều mảnh đá phun trào,
biến chất và carbonat). Phân loại đá cát kết
chủ yếu thuộc loại litharenit và litharenit
felspat, ít lithic arkos hoặc sublitharenit. Đá
bị biến đổi thứ sinh từ giai đoạn catagen
sớm (cho các đá nằm ở độ sâu <2.700 m)
đến catagen muộn cho các đá nằm sâu hơn
3.350 m. Phần lớn cát kết của hệ tầng được
coi là các tầng chứa sản phẩm thuộc loại
trung bình - tốt.
Hoá đá cổ sinh nghèo nàn nên mức độ
tin cậy của tuối Oligocen của hệ tầng cần
phải nghiên cứu thêm.
NEOGEN
Miocen dưới
Hệ tầng Ngọc Hiển (N 11 nh)
Mặt cắt của hệ tầng gồm chủ yếu là sét
kết, sét chứa ít vôi, sét chứa than, các lớp
than xen kẽ các lớp mỏng bột kết, cát kết.
Đôi khi có các lớp đá vôi dạng vi hạt hoặc
đá vôi chứa nhiều mảnh vụn lục nguyên
màu trắng, xám trắng cứng chắc. Sét kết
màu xám lục, xám đen tới xám nâu, đôi khi
đỏ nâu, gắn kết trung bình - kém, phân lớp
rất dày hoặc dạng khối có nhiều nơi chứa
ít thành phần carbonat (dolomit và calcit),
các mảnh vụn than hoặc xen kẽ các lớp
than màu đen hoặc đen phớt nâu, dòn và
cứng. Các vỉa than tăng lên nhiều cả về bề
dày và số lượng vỉa so với trầm tích của hệ
tầng Kim Long nằm dưới. Ngoài kaolinit và
hydromica là thành phần khoáng vật chính,
còn có một lượng đáng kể của nhóm khoáng
vật lớp hỗn hợp hydromica/montmorilonit.
Tập đá sét dày xen kẽ nhiều lớp than có
khả năng chắn được các vỉa dầu khí mà đã
phát hiện được trong một số giếng khoan
(B-KL, 46-PT v.v... ). Ngoài ra, đá sét của
hệ tầng thường khá giàu vật chất hữu cơ
(VCHC) nên đã được xác định là một tầng
có khả năng sinh, chủ yếu là sinh khí và
condensat.
Cát kết mầu xám nhạt đến xám lục
hoặc xám nâu, phần nhiều hạt nhỏ đến
trung, hiếm khi hạt thô hoặc sạn kết. Hạt
vụn bán góc cạnh đến tròn cạnh, độ lựa
chọn mài tròn của hạt vụn thay đổi từ trung
bình đến rất tốt. Trong một số lớp cát kết
có chứa glauconit, hoá đá foraminifera và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_11_5233.pdf