Bể trầm tích Cửu Long nằm chủ yếu trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam và một phần đất liền thuộc khu vực cửa sông Cửu Long. Bể có hình bầu dục, vồng ra về phía biển và nằm dọc theo bờ biển Vũng Tàu - Bình Thuận. Bể Cửu Long được xem là bể trầm tích khép kín điển hình của Việt
Nam. Tuy nhiên, nếu tính theo đường đẳng dày trầm tích 1.000 m thì bể có xu hướng mở về phía ĐB, phía Biển Đông hiện tại.
Bể Cửu Long tiếp giáp với đất liền về phía Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam Côn Sơn (NCS) bởi đới nâng Côn Sơn, phía Tây Nam là đới nâng Khorat - Natuna và phía Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hòa ngăn cách với bể Phú Khánh. Bể có diện tích khoảng 36.000 km2, bao gồm các lô: 9, 15,
16, 17 và một phần của các lô: 1, 2, 25 và 31. Bể được bồi lấp chủ yếu bởi trầm tích lục nguyên Đệ Tam, chiều dày lớn nhất của chúng tại trung tâm bể có thể đạt tới 7-8 km
46 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bể trầm tích Cửu Long và tài nguyên dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Bể trầm tích
Cửu Long
và
tài nguyên
dầu khí
9
265
Chương 9. Bể trầm tích Cửu Long và tài nguyên dầu khí
Bể trầm tích Cửu Long nằm chủ yếu
trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam và
một phần đất liền thuộc khu vực cửa sông
Cửu Long. Bể có hình bầu dục, vồng ra về
phía biển và nằm dọc theo bờ biển Vũng
Tàu - Bình Thuận. Bể Cửu Long được xem
là bể trầm tích khép kín điển hình của Việt
Nam. Tuy nhiên, nếu tính theo đường đẳng
dày trầm tích 1.000 m thì bể có xu hướng
mở về phía ĐB, phía Biển Đông hiện tại.
Bể Cửu Long tiếp giáp với đất liền về phía
Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam Côn Sơn
(NCS) bởi đới nâng Côn Sơn, phía Tây
Nam là đới nâng Khorat - Natuna và phía
Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hòa ngăn
cách với bể Phú Khánh. Bể có diện tích
khoảng 36.000 km2, bao gồm các lô: 9, 15,
16, 17 và một phần của các lô: 1, 2, 25 và
31. Bể được bồi lấp chủ yếu bởi trầm tích
lục nguyên Đệ Tam, chiều dày lớn nhất
của chúng tại trung tâm bể có thể đạt tới
7-8 km (Hình 9.1).
Công tác khảo sát địa vật lý tại bể
Cửu Long đã được tiến hành từ thập niên
70. Đến năm 1975 tại giếng khoan sâu tìm
kiếm đầu tiên BH-1X đã phát hiện được
dòng dầu công nghiệp đầu tiên trong cát
kết Miocen dưới. Kể từ đó công tác thăm
dò địa chất dầu khí đã được Tổng cục Dầu
khí Việt Nam (nay là Tổng công ty Dầu
khí Việt Nam) quan tâm, triển khai một
cách mạnh mẽ, đặc biệt từ khi thành lập
Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro (VSP),
năm 1981. Hầu hết các lô đã chia có chiều
dày trầm tích từ khoảng 2.000 m trở lên
đều đã và đang được thăm dò và khai thác
bởi các công ty dầu theo các dạng hợp đồng
ký với nước chủ nhà như: liên doanh (VSP),
phân chia sản phẩm (JVPC, Petronas
CARIGALI Vietnam, Conoco) hay cùng
điều hành (Cửu Long, Hoàng Long, Hoàn
Vũ, Lam Sơn, VRJ). Đến nay bể Cửu Long
được xem là một bể chứa dầu lớn nhất ở
thềm lục địa Việt Nam với các mỏ đang
được khai thác như: Bạch Hổ, Rồng, Rạng
Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen và nhiều
mỏ khác đang được thẩm lượng chuẩn bị
phát triển như: Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng,
Emerald...
2. Lịch sử nghiên cứu, tìm kiếm, thăm
dò và khai thác dầu khí
Lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí bể
Cửu Long gắn liền với lịch sử tìm kiếm
thăm dò dầu khí của thềm lục địa Nam
Việt Nam. Căn cứ vào quy mô, mốc lịch sử
và kết quả thăm dò, lịch sử tìm kiếm thăm
dò dầu khí của bể Cửu Long được chia ra
thành 4 giai đoạn:
1. Giới thiệu
266
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
2.1. Giai đoạn trước năm 1975
Đây là thời kỳ khảo sát địa vật lý khu
vực như từ, trọng lực và địa chấn để phân
chia các lô, chuẩn bị cho công tác đấu thầu,
ký hợp đồng dầu khí.
Năm 1967 US Navy Oceanographic
Office đã tiến hành khảo sát từ hàng không
gần khắp lãnh thổ Miền Nam.
Năm 1967-1968 hai tàu Ruth và Maria
của Alpine Geophysical Corporation đã
tiến hành đo 19500 km tuyến địa chấn ở
phía Nam Biển Đông trong đó có tuyến cắt
qua bể Cửu Long.
Năm 1969 Công ty Ray Geophysical
Mandrel đã tiến hành đo địa vật lý biển
bằng tàu N.V.Robray I ở vùng thềm lục
địa Miền Nam và vùng phía Nam của Biển
Đông với tổng số 3482km tuyến trong đó
có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Trong năm 1969 US Navy
Oceanographic cũng tiến hành đo song
song 20.000 km tuyến địa chấn bằng 2 tàu
R/V E.V Hunt ở vịnh Thái Lan và phía Nam
Biển Đông trong đó có tuyến cắt qua bể
Cửu Long.
Đầu năm 1970, công ty Ray
Geophysical Mandrel lại tiến hành đo đợt
hai ở Nam Biển Đông và dọc bờ biển 8.639
km, đảm bảo mạng lưới cỡ 30 km x 50 km,
kết hợp giữa các phương pháp từ, trọng lực
và hàng không trong đó có tuyến cắt qua
bể Cửu Long.
Năm 1973-1974 đã đấu thầu trên 11 lô,
trong đó có 3 lô thuộc bể Cửu Long là 09,
15 và 16.
Năm 1974, công ty Mobil trúng thầu
Hình 9.1. Vị trí bể Cửu Long
267
Chương 9. Bể trầm tích Cửu Long và tài nguyên dầu khí
trên lô 09 đã tiến hành khảo sát địa vật lý,
chủ yếu là địa chấn phản xạ, có từ và trọng
lực với khối lượng là 3.000 km tuyến. Vào
cuối năm 1974 và đầu năm 1975 Công ty
Mobil đã khoan giếng khoan tìm kiếm đầu
tiên trong bể Cửu Long, BH-1X ở phần
đỉnh của cấu tạo Bạch Hổ. Kết quả thử
vỉa đối tượng cát kết Miocen dưới ở chiều
sâu 2.755-2.819m đã cho dòng dầu công
nghiệp, lưu lượng dầu đạt 342m3/ngày [36].
Kết quả này đã khẳng định triển vọng và
tiềm năng dầu khí của bể Cửu Long.
2.2. Giai đoạn 1975-1979
Năm 1976, Công ty địa vật lý CGG của
Pháp khảo sát 1.210,9 km theo các con sông
của đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven
biển Vũng Tàu-Côn Sơn. Kết quả của công
tác khảo sát địa chấn đã xây dựng được các
tầng phản xạ chính: từ CL20 đến CL80 và
khẳng định sự tồn tại của bể Cửu Long với
một mặt cắt trầm tích Đệ Tam dày.
Năm 1978 công ty Geco (Na Uy) thu
nổ địa chấn 2D trên lô 10, 09, 16, 19, 20,
21 với tổng số 11.898,5 km và làm chi tiết
trên cấu tạo Bạch Hổ với mạng lưới tuyến
2x2 và 1x1 km. Riêng đối với lô 15, công
ty Deminex đã hợp đồng với Geco khảo sát
3.221,7 km tuyến địa chấn với mạng lưới
3,5 x 3,5 km trên lô 15 và cấu tạo Cửu Long
(nay là Rạng Đông). Căn cứ vào kết quả
minh giải tài liệu địa chấn này Deminex
đã khoan 4 giếng khoan tìm kiếm trên các
cấu tạo triển vọng nhất Trà Tân (15-A-
1X), Sông Ba (15-B-1X), Cửu Long (15-
C-1X) và Đồng Nai (15-G-1X). Kết qủa
khoan các giếng này đều gặp các biểu hiện
dầu khí trong cát kết tuổi Miocen sớm và
Oligocen, nhưng dòng không có ý nghĩa
công nghiệp.
2.3. Giai đoạn 1980 đến 1988
Công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí
ở thềm lục địa Nam Việt Nam trong giai
đoạn này được triển khai rộng khắp, nhưng
tập trung chủ yếu vào một đơn vị, đó là Xí
nghiệp liên doanh Vietsovpetro. Năm 1980
tàu nghiên cứu POISK đã tiến hành khảo
sát 4.057 km tuyến địa chấn MOB - điểm
sâu chung, từ và 3.250 km tuyến trọng lực.
Kết quả của đợt khảo sát này đã phân chia
ra được tập địa chấn B (CL4-1, CL4-2), C
(CL5-1), D (CL5-2), E (CL5-3) và F (CL6-
2), đã xây dựng được một số sơ đồ cấu tạo
dị thường từ và trọng lực Bouguer.
Năm 1981 tàu nghiên cứu Iskatel đã
tiến hành khảo sát địa vật lý với mạng lưới
2x2,2 - 3x2-3 km địa chấn MOB-OΓT-48,
trọng lực, từ ở phạm vi lô 09 , 15 và 16 với
tổng số 2.248 km.
Năm 1983-1984 tàu viện sĩ Gamburxev
đã tiến hành khảo sát 4.000 km tuyến địa
chấn để nghiên cứu phần sâu nhất của bể
Cửu Long.
Trong thời gian này XNLD Vietsovpetro
đã khoan 4 giếng trên các cấu tạo Bạch Hổ
và Rồng: R-1X, BH-3X, BH-4X, BH-5X và
TĐ-1X trên cấu tạo Tam Đảo. Trừ TĐ-1X
tất cả 4 giếng còn lại đều phát hiện vỉa dầu
công nghiệp từ các vỉa cát kết Miocen dưới
và Oligocen (BH-4X).
Cuối giai đoạn 1980 - 1988 được đánh
dấu bằng việc Vietsovpetro đã khai thác
những tấn dầu từ 2 đối tượng khai thác
Miocen, Oligocen dưới của mỏ Bạch Hổ
vào năm 1986 và phát hiện ra dầu trong đá
móng granit nứt nẻ vào tháng 9 năm 1988.
268
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
2.4. Giai đoạn 1989 đến nay
Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ
nhất công tác tìm kiếm, thăm dò và khai
thác dầu khí ở bể Cửu Long. Với sự ra đời
của Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Dầu
Khí, hàng loạt các công ty dầu nước ngoài
đã ký hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc
cùng đầu tư vào các lô mở và có triển vọng
tại bể Cửu Long. Đến cuối năm 2003 đã
có 9 hợp đồng tìm kiếm thăm dò được ký
kết trên các lô: 09-1, 09-2, 09-3, 01&02,
01&02/96, 15-1, 15-2, 16-1, 16-2, 17.
Triển khai các hợp đồng đã ký về công
tác khảo sát địa vật lý thăm dò, các công ty
dầu khí đã ký hợp đồng với các công ty dịch
vụ khảo sát địa chấn có nhiều kinh nghiệm
trên thế giới như: CGG, Geco-Prakla,
Western Geophysical Company, PGS v.v.
Hầu hết các lô trong bể đã được khảo sát
địa chấn tỉ mỉ không chỉ phục vụ cho công
tác thăm dò mà cả cho công tác chính xác
mô hình vỉa chứa. Khối lượng khảo sát địa
chấn trong giai đoạn này, 2D là 21.408 km
và 3D là 7.340,6 km2. Khảo sát địa chấn 3D
được tiến hành trên hầu hết các diện tích
có triển vọng và trên tất cả các vùng mỏ đã
phát hiện.
Trong lĩnh vực xử lý tài liệu địa chấn
3D có những tiến bộ rõ rệt khi áp dụng quy
trình xử lý dịch chuyển thời gian và độ sâu
trước cộng (PSTM, PSDM).
Cho đến hết năm 2003 tổng số giếng
khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác đã
khoan ở bể Cửu Long khoảng 300 giếng,
trong đó riêng Vietsovpetro chiếm trên
70%.
Bằng kết quả khoan nhiều phát hiện
dầu khí đã được xác định: Rạng Đông (lô
15.2), Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng
(lô 15.1), Topaz North, Diamond, Pearl,
Emerald (lô 01), Cá Ngừ Vàng (lô 09.2),
Voi Trắng (lô 16.1), Đông Rồng, Đông
Nam Rồng (lô 09-1). Trong số phát hiện
này có 5 mỏ dầu: Bạch Hổ, Rồng (bao gồm
cả Đông Rồng và Đông Nam Rồng), Rạng
Đông, Sư Tử Đen, Hồng Ngọc hiện đang
được khai thác, với tổng sản lượng khoảng
45.000 tấn/ngày. Tổng lượng dầu đã thu
hồi từ 5 mỏ từ khi đưa vào khai thác cho
đến đầu năm 2005 khoảng 170 triệu tấn.
3. Các yếu tố cấu trúc và lịch sử phát
triển địa chất
3.1. Các yếu tố cấu trúc
Việc phân chia các đơn vị cấu tạo được
dựa trên đặc điểm cấu trúc địa chất của từng
khu vực với sự khác biệt về chiều dày trầm
tích và thường được giới hạn bởi những đứt
gãy hoặc hệ thống đứt gãy có biên độ đáng
kể. Nếu coi Bể Cửu Long là đơn vị cấu trúc
bậc 1 thì cấu trúc bậc 2 của bể bao gồm các
đơn vị cấu tạo sau: trũng phân dị Bạc Liêu;
trũng phân dị Cà Cối; đới nâng Cửu Long;
đới nâng Phú Quý (phần lún chìm kéo dài
khối nâng Côn Sơn) và trũng chính bể Cửu
Long. Ranh giới phân chia các đơn vị cấu
tạo được thể hiện trên hình 9.2.
Trũng phân dị Bạc Liêu là một trũng
nhỏ nằm ở phần cuối Tây Nam của bể
Cửu Long với diện tích khoảng 3600 km2.
Gần một nửa diện tích của trũng thuộc lô
31, phần còn lại thuộc phần nước nông và
đất liền. Trũng có chiều dày trầm tích Đệ
Tam không lớn khoảng 3km và bị chia cắt
bởi các đứt gãy thuận có phương TB-ĐN.
Trong trũng có khả năng bắt gặp trầm tích
như trong trũng phân dị Cà Cối.
269
Chương 9. Bể trầm tích Cửu Long và tài nguyên dầu khí
Trũng phân dị Cà Cối nằm chủ yếu ở
khu vực cửa sông Hậu có diện tích rất nhỏ
và chiều dày trầm tích không lớn, trên dưới
2000 m. Tại đây đã khoan giếng khoan CL-
1X và mở ra hệ tầng Cà Cối. Trũng bị phân
cắt bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-
TN, gần như vuông góc với phương của đứt
gãy trong trũng phân dị Bạc Liêu.
Đới nâng Cửu Long nằm về phía
Đông của trũng phân dị Bạc Liêu và Cà
Cối, phân tách 2 trũng này với trũng chính
của bể Cửu Long. Đới nâng có chiều dày
trầm tích không đáng kể, chủ yếu là trầm
tích hệ tầng Đồng Nai và Biển Đông. Đới
nâng không có tiền đề, dấu hiệu dầu khí vì
vậy đã không được nghiên cứu chi tiết và
không xác định sự phát triển các đứt gãy
kiến tạo.
Các đơn vị cấu trúc vừa nêu được xem
là rất ít hoặc không có triển vọng dầu khí,
vì vậy chúng ít khi được đề cập đến trong
các công trình nghiên cứu và đôi khi không
được xem như một đơn vị cấu thành của bể
Cửu Long.
Đới nâng Phú Quý được xem như phần
kéo dài của đới nâng Côn Sơn về phía Đông
Bắc, thuộc lô 01 và 02. Đây là đới nâng cổ,
có vai trò khép kín và phân tách bể Cửu
Long với phần phía Bắc của bể Nam Côn
Sơn. Tuy nhiên, vào giai đoạn Neogen - Đệ
Tứ thì diện tích này lại thuộc phần mở của
bể Cửu Long. Chiều dày trầm tích thuộc
khu vực đới nâng này dao động từ 1.5 đến
2 km. Cấu trúc của đới bị ảnh hưởng khá
mạnh bởi hoạt động núi lửa, kể cả núi lửa
trẻ.
Trũng chính bể Cửu Long. Đây là phần
lún chìm chính của bể, chiếm tới 3/4diện
tích bể, gồm các lô 15, 16 và một phần các
lô 01, 02, 09, 17. Theo đường đẳng dày 2
km thì Trũng chính bể Cửu Long thể hiện
rõ nét là một bể khép kín có dạng trăng
khuyết với vòng cung hướng ra về phía
Đông Nam. Toàn bộ triển vọng dầu khí
Hình 9.2. Sơ đồ phân vùng kiến tạo Bể Cửu Long
270
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
đều tập trung ở trũng này. Vì vậy, cấu trúc
của trũng được nghiên cứu khá chi tiết và
được phân chia ra thành các đơn vị cấu trúc
nhỏ hơn như một bể độc lập thực thụ. Các
đơn vị cấu tạo bậc 3 gồm: trũng Đông Bắc;
trũng Tây Bạch Hổ; trũng Đông Bạch Hổ;
sườn nghiêng Tây Bắc; sườn nghiêng Đông
Nam; đới nâng Trung Tâm; đới nâng phía
Bắc; đới nâng phía Đông; đới phân dị Đông
Bắc; đới phân dị Tây Nam (Hình 9.3).
Sườn nghiêng Tây Bắc là dải sườn bờ
Tây Bắc của bể kéo dài theo hướng ĐB-
TN, chiều dày trầm tích tăng dần về phía
Tây Nam từ 1 đến 2.5 km. Sườn nghiêng
bị cắt xẻ bởi các đứt gãy kiến tạo có hướng
ĐB-TN hoặcTB-ĐN, tạo thành các mũi
nhô. Trầm tích Đệ Tam của bể thường có
xu hướng vát nhọn và gá đáy lên móng cổ
granitoid trước Kainozoi.
Sườn nghiêng Đông Nam là dải sườn
bờ Đông Nam của bể, tiếp giáp với đới
nâng Côn Sơn. Trầm tích của đới này có
xu hướng vát nhọn và gá đáy với chiều dày
dao động từ 1 đến 2.5 km. Sườn nghiêng
này cũng bị phức tạp bởi các đứt gãy kiến
tạo có phương ĐB-TN và á vĩ tuyến tạo
nên các cấu tạo địa phương như cấu tạo
Amethyst, Cá Ông Đôi, Opal, Sói.
Trũng Đông Bắc, đây là trũng sâu
nhất, chiều dày trầm tích có thể đạt tới 8
km. Trũng có phương kéo dài dọc theo trục
chính của bể, nằm kẹp giữa hai đới nâng
và chịu khống chế bởi hệ thống các đứt gãy
chính hướng ĐB-TN.
Trũng Tây Bạch Hổ. Trong một số tài
liệu trũng này được ghép chung với trũng
Đông Bắc. Tuy nhiên, về đặc thù kiến tạo
giữa 2 trũng có sự khác biệt đáng kể đặc
biệt là phương của các đứt gãy chính. Trũng
Tây Bạch Hổ bị khống chế bởi các đứt gãy
kiến tạo có phương á vĩ tuyến, tạo sự gấp
khúc của bể. Chiều dày trầm tích của trũng
này có thể đạt tới 7.5 km.
Trũng Đông Bạch Hổ nằm kẹp giữa
đới nâng Trung Tâm về phía Tây, sườn
nghiêng Đông Nam về phía Đ-ĐN và đới
nâng Đông Bắc về phía Bắc. Trũng có
chiều dày trầm tích đạt tới 7 km và là một
trong ba trung tâm tách giãn của bể.
Đới nâng Trung Tâm là đới nâng nằm
Hình 9.3. Mặt cắt ngang trũng chính bể Cửu Long
271
Chương 9. Bể trầm tích Cửu Long và tài nguyên dầu khí
kẹp giữa hai trũng Đông và Tây Bạch Hổ
và được giới hạn bởi các đứt gãy có biên
độ lớn với hướng đổ chủ yếu về phía Đông
Nam. Đới nâng bao gồm các cấu tạo dương
và có liên quan đến những khối nâng cổ của
móng trước Kainozoi như: Bạch Hổ, Rồng.
Các cấu tạo bị chi phối không chỉ bởi các
đứt thuận hình thành trong quá trình tách
giãn, mà còn bởi các đứt gãy trượt bằng và
chờm nghịch do ảnh hưởng của sự siết ép
vào Oligocen muộn.
Đới nâng phía Tây Bắc nằm về phía
Tây Bắc trũng Đông Bắc và được khống
chế bởi các đứt gãy chính phương ĐB-TN.
Về phía TB đới nâng bị ngăn cách với Sườn
nghiêng Tây Bắc bởi một địa hào nhỏ có
chiều dày trầm tích khoảng 6 km. Đới nâng
bao gồm cấu tạo Vừng Đông và dải nâng
kéo dài về phía Đông Bắc.
Đới nâng phía Đông chạy dài theo
hướng ĐB-TN, phía TB ngăn cách với trũng
ĐB bởi hệ thống những đứt gãy có phương
á vĩ tuyến và ĐB-TN, phía ĐN ngăn cách
với đới phân dị Đông Bắc bởi võng nhỏ,
xem như phần kéo dài của trũng Đông Bạch
Hổ về phía ĐB. Trên đới nâng đã phát hiện
được các cấu tạo dương như: Rạng Đông,
Phương Đông và Jade.
Hình 9.4. Bản đồ cấu trúc mặt móng Bể Cửu Long
272
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
Đới phân dị Đông Bắc (phần đầu Đông
Bắc của bể) nằm kẹp giữa đới nâng Đông
Phú Quý và Sườn nghiêng Tây Bắc. Đây là
khu vực có chiều dày trầm tích trung bình
và bị phân dị mạnh bởi các hệ thống đứt
gãy có đường phương TB-ĐN, á kinh tuyến
và á vĩ tuyến tạo thành nhiều địa hào, địa
luỹ nhỏ (theo bề mặt móng). Một số các
cấu tạo dương địa phương đã xác định như:
Hồng Ngọc, Pearl, Turquoise, Diamond,
Agate.
Đới phân dị Tây Nam nằm về đầu Tây
Nam của trũng chính. Khác với đới phân dị
ĐB, đới này bị phân dị mạnh bởi hệ thống
những đứt gãy với đường phương chủ yếu
là á vĩ tuyến tạo thành những địa hào, địa
luỹ, hoặc bán địa hào, bán địa luỹ xen kẽ
nhau. Những cấu tạo có quy mô lớn trong
đới này phải kể đến: Đu Đủ, Tam Đảo, Bà
Đen và Ba Vì.
Các cấu tạo địa phương dương bậc 4
là đối tượng tìm kiếm và thăm dò dầu khí
chính của bể.
3.2. Lịch sử phát triển địa chất
Như đã nêu trong chương 5, bể trầm tích
Cửu Long là bể rift nội lục điển hình. Bể
được hình thành và phát triển trên mặt đá
kết tinh trước Kainozoi (thường được gọi là
mặt móng). Đặc điểm cấu trúc của bể thể
hiện trên bản đồ cấu trúc mặt móng - CL80
(Hình 9.4). Các bản đồ cấu trúc mặt không
chỉnh hợp trong Oligocen trên - CL52 (Hình
9.5), nóc Oligocen - CL50 (Hình 9.6) và nóc
Miocen dưới - CL40 (Hình 9.7), có thể thấy
rõ quá trình phát triển bể.
Thời kỳ trước tạo rift. Trước Đệ Tam,
đặc biệt từ Jura muộn đến Paleocen là
thời gian thành tạo và nâng cao đá móng
magma xâm nhập (các thành tạo nằm dưới
Hình 9.5. Bản đồ cấu trúc trong Oligocen trên - CL52 Bể Cửu Long
273
Chương 9. Bể trầm tích Cửu Long và tài nguyên dầu khí
Hình 9.7. Bản đồ cấu trúc nóc Mioocen dưới- CL40 Bể Cửu Long
Hình 9.6. Bản đồ cấu trúc nóc Oligocen - CL50 Bể Cửu Long
274
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
các trầm tích Kainozoi ở bể Cửu Long). Các
đá này gặp rất phổ biến ở hầu khắp lục địa
Nam Việt Nam. Thành phần của đá móng
kết tinh bể Cửu Long được mô tả trong mục
4 của chương này.
Do ảnh hưởng của quá trình va mảng
Ấn Độ vào mảng Âu-Á và hình thành đới
hút chìm dọc cung Sunda (50-43.5 triệu
năm). Các thành tạo đá xâm nhập, phun
trào Mesozoi muộn-Kainozoi sớm và trầm
tích cổ trước đó đã trải qua thời kì dài bóc
mòn, giập vỡ khối tảng, căng giãn khu vực
hướng TB-ĐN. Sự phát triển các đai mạch
lớn, kéo dài có hướng đông bắc - tây nam
thuộc phức hệ Cù Mông và Phan Rang tuổi
tuyệt đối 60-30 tr.n đã minh chứng cho điều
đó. Đây là giai đoạn san bằng địa hình trước
khi hình thành bể trầm tích Cửu Long. Địa
hình bề mặt bóc mòn của móng kết tinh
trong phạm vi khu vực bể lúc này không
hoàn toàn bằng phẳng, có sự đan xen giữa
các thung lũng và đồi, núi thấp. Chính hình
thái địa hình mặt móng này đóng vai trò
khá quan trọng trong việc phát triển trầm
tích lớp phủ kế thừa vào cuối Eocen, đầu
Oligocen.
Thời kỳ đồng tạo rift. Được khởi đầu
vào cuối Eocen, đầu Oligocen do tác động
của các biến cố kiến tạo vừa nêu với hướng
căng giãn chính là TB-ĐN. Hàng loạt đứt
gãy hướng ĐB-TN đã được sinh thành do
sụt lún mạnh và căng giãn. Các đứt gãy
chính là những đứt gãy dạng gàu xúc,
cắm về ĐN. Còn các đứt gãy hướng ĐB-
TN lại do tác động bởi các biến cố kiến
tạo khác. Như đã nêu trong chương 4, vào
đầu Kainozoi do sự va mạnh ở góc hội tụ
Tây Tạng giữa các mảng Ấn Độ và Âu-Á
làm vi mảng Indosinia bị thúc trồi xuống
Đông Nam theo các đứt gãy trượt bằng lớn
như đứt gãy Sông Hồng, Sông Hậu-Three
Pagoda [25, 26], với xu thế trượt trái ở phía
Bắc và trượt phải ở phía Nam tạo nên các
trũng Đệ Tam trên các đới khâu ven rìa,
trong đó có bể Cửu Long. Kết quả là đã
hình thành các hệ thống đứt gãy khác có
hướng gần ĐB-TN. Như vậy, trong bể Cửu
Long bên cạnh hướng ĐB-TN còn có các
hệ đứt gãy có hướng cận kề chúng.
Trong Oligocen giãn đáy biển theo
hướng B-N tạo Biển Đông bắt đầu từ 32tr.
năm. Trục giãn đáy biển phát triển lấn dần
xuống TN và đổi hướng từ Đ-T sang ĐB-
TN vào cuối Oligocen. Các quá trình này
đã gia tăng các hoạt động tách giãn và đứt
gãy ở bể Cửu Long trong Oligocen và nén
ép vào cuối Oligocen.
Do các hoạt động kiến tạo nêu trên, ở
bể Cửu Long các đứt gãy chính điển hình là
các đứt gãy dạng gàu xúc, phương ĐB - TN
cắm về ĐN, một số có hướng Đ - T, nhiều
bán địa hào, địa hào cùng hướng phát triển
theo các đứt gãy được hình thành. Các bán
địa hào, địa hào này được lấp đầy nhanh
bằng các trầm tích vụn thô, phun trào chủ
yếu thành phần bazơ - trung tính và trầm
tích trước núi. Trong thời gian đầu tạo bể có
lẽ do chuyển động sụt lún khối tảng, phân
dị nên tại các đới trũng khác nhau có thể
có các thời kì gián đoạn, bào mòn trầm tích
khác nhau. Do khu vực tích tụ trầm tích và
cung cấp trầm tích nằm kế cận nhau nên
thành phần trầm tích ở các đới trũng khác
nhau có thể khác biệt nhau. Đặc điểm phát
triển các bề mặt không chỉnh hợp ở thời kì
này mang tính địa phương cao và cần được
lưu ý khi tiến hành liên kết, đối sánh thạch
địa tầng. Vào Oligocen sớm, bao quanh và
275
Chương 9. Bể trầm tích Cửu Long và tài nguyên dầu khí
nằm gá lên các khối nhô móng kết tinh phổ
biến là trầm tích nguồn lục địa - sông ngòi
và đầm hồ, với các tập sét dày đến một vài
chục mét (như trên cấu tạo Sư Tử Trắng và
cánh Đông Bắc mỏ Bạch Hổ).
Quá trình tách giãn tiếp tục phát triển
làm cho bể lún chìm sâu, rộng hơn. Các hồ,
trũng trước núi trước đó được mở rộng, sâu
dần và liên thông nhau và có chế độ trầm
tích khá đồng nhất. Các tầng trầm tích hồ
dày, phân bố rộng được xếp vào hệ tầng
Trà Tân được thành tạo, mà chủ yếu là sét
giàu vật chất hữu cơ màu nâu, nâu đen tới
đen. Các hồ phát triển trong các địa hào
riêng biệt được liên thông nhau, mở rộng
dần và có hướng phát triển kéo dài theo
phương ĐB-TN, đây cũng là phương phát
triển ưu thế của hệ thống đứt gãy mở bể.
Các trầm tích thuộc tầng Trà Tân dưới có
diện phân bố hẹp, thường vắng mặt ở phần
rìa bể, phần kề với các khối cao địa lũy và
có dạng nêm điển hình, chúng phát triển
dọc theo các đứt gãy với bề dày thay đổi
nhanh. Các trầm tích giàu sét của tầng Trà
Tân giữa được tích tụ sau đó, phân bố rộng
hơn, bao phủ trên hầu khắp các khối cao
trong bể và các vùng cận rìa bể.
Hoạt động ép nén vào cuối Oligocen
muộn đã đẩy trồi các khối móng sâu, gây
nghịch đảo trong trầm tích Oligocen ở trung
tâm các đới trũng chính, l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_9_218.pdf