Nền kinh tế nước ta đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế thị trường là một cơ chế tinh vi, phối hợp không tự giác giữa người tiên dùng và các doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là phương tiện gián tiếp để tập hợp trí thức và hoạt động của cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nhưng vẫn giải quyết những bài toán mà những máy tính hiện đại nhất cũng không thể giải nổi. Đặc trưng của cơ chế thị trường là tự vận động theo những quy luật vốn có của nó như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Các quy luật này có vị trí vai trò độc lập song lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo ra những quy tắc vận động của thị trường.
Quản lý kinh tế là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con người xét từ phạm vi cá nhân, tập đoàn, quốc gia. Đây cũng là một hoạt động quyết định mang tính sống còn của các chủ thể tham dự vào các hoạt động kinh tế. Quản lý đúng dẫn tới sự thành công, tồn tại vững chắc và phát triển còn quản lý sai dẫn đến sự thất bại, suy thoái, biến chất, yếu hèn và đổ vỡ. Trong quản lý kinh tế, con người thường có các giới hạn nhất định và chính điều này buộc con người phải biết lựa chọn các giải pháp khôn khéo, xử lý đúng đắn thông tin và ra quyết định đúng. Để làm được điều này, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, là tế bào của nền kinh tế quốc dân. tài chính doanh nghiệp là cơ sở của hệ thống tài chính. Nó sáng tạo ra của cải vật chất và làm tăng thêm nguồn tài chính quốc gia.
Quản lý Nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp một mặt kích thích doanh nghiệp khai thác và sử dụng hợp lý mọi nguồn tài chính để phát triển sản xuất, cạnh tranh trên thị trường một cách có hiệu quả nhất. Mặt khác, giám sát kiểm tra tạo điều kiện để doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh chế độ tài chính của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Là một sinh viên thực tập tại phòng tài vụ Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội, em thực hiện Báo cáo với đề tài: “Báo cáo về công tác quản lý vốn tại Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội.”
Kết cấu của Báo cáo:
Lời nói đầu: đề cập tính cấp thiết của Báo cáo.
Phần I: Đặc điểm chung của Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội.
Phần II: Thực trạng công tác quản lý vốn của Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội.
Phần III: Một số kiến nghị.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1009 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Báo cáo Về công tác quản lý vốn tại Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 2
Phần I: Đặc điểm chung về công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội:
Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty...........4
Chức năng của công ty........................................... 5
Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty.......6
Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất .................8
Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty............................................................11
Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán của Công ty.....12
Một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh năm 2003 của Công ty..................................................................13
Phần II:Thực trạng công tác quản lý vốn của công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội.
1. Một số vấn đề lý luận chung..................................16
2. Thực trạng công tác quản lý vốn của Công ty.......22
Phần III: Một số kiến nghị…………………………………… 28
Lời nói đầu
Nền kinh tế nước ta đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế thị trường là một cơ chế tinh vi, phối hợp không tự giác giữa người tiên dùng và các doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là phương tiện gián tiếp để tập hợp trí thức và hoạt động của cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nhưng vẫn giải quyết những bài toán mà những máy tính hiện đại nhất cũng không thể giải nổi. Đặc trưng của cơ chế thị trường là tự vận động theo những quy luật vốn có của nó như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Các quy luật này có vị trí vai trò độc lập song lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo ra những quy tắc vận động của thị trường.
Quản lý kinh tế là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con người xét từ phạm vi cá nhân, tập đoàn, quốc gia. Đây cũng là một hoạt động quyết định mang tính sống còn của các chủ thể tham dự vào các hoạt động kinh tế. Quản lý đúng dẫn tới sự thành công, tồn tại vững chắc và phát triển còn quản lý sai dẫn đến sự thất bại, suy thoái, biến chất, yếu hèn và đổ vỡ. Trong quản lý kinh tế, con người thường có các giới hạn nhất định và chính điều này buộc con người phải biết lựa chọn các giải pháp khôn khéo, xử lý đúng đắn thông tin và ra quyết định đúng. Để làm được điều này, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, là tế bào của nền kinh tế quốc dân. tài chính doanh nghiệp là cơ sở của hệ thống tài chính. Nó sáng tạo ra của cải vật chất và làm tăng thêm nguồn tài chính quốc gia.
Quản lý Nhà nước đối với tài chính doanh nghiệp một mặt kích thích doanh nghiệp khai thác và sử dụng hợp lý mọi nguồn tài chính để phát triển sản xuất, cạnh tranh trên thị trường một cách có hiệu quả nhất. Mặt khác, giám sát kiểm tra tạo điều kiện để doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh chế độ tài chính của Nhà nước, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Là một sinh viên thực tập tại phòng tài vụ Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội, em thực hiện Báo cáo với đề tài: “Báo cáo về công tác quản lý vốn tại Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội.”
Kết cấu của Báo cáo:
Lời nói đầu: đề cập tính cấp thiết của Báo cáo.
Phần I: Đặc điểm chung của Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội.
Phần II: Thực trạng công tác quản lý vốn của Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội.
Phần III: Một số kiến nghị.
Phần I
ĐặC ĐIểM CHUNG Về CÔNG TY Thiết bị kỹ thuật đIện Hà nội
I. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty:
Tên Công ty : Công ty thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội
Loại hình doanh nghiệp : Doanh nghiệp nhà nước
Trụ sở chính : 14-16 Hàm Long
Ngành nghề chính : Sản xuất-kinh doanh dây điện và cáp điện
Giám đốc : Đỗ Văn Vượng
Số tài khoản tiền VN : 710- 00117 Ngân hàng Công thương VN.
Công ty thiết bị kỹ thuật điện là doanh nghiệp Nhà nước,hạch toán kinh tế độc lập,tự chủ về tài chính,kỹ thuật trực thuộc sở Công nghiệp Hà Nội, là một đơn vị kinh tế cơ sở thuộc sở hữu toàn dân. ở đây, một tập thể công nhân viên chức sử dụng máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, tiền vốn và các tư liêu sản xuất khác để khai thác chế tạo sản phẩm công nghiệp phục vụ nhu cầu của xã hội và kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế.
Trụ sở chính của công ty ở 14- 16 Hàm Long, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Ngành nghề kinh doanh chính của công ty là: sản xuất, bán buôn, bán lẻ các loại dây điện, cáp điện. Bên cạnh đó, Công ty còn có các hoạt động kinh doanh khác, đặc biệt là cho thuê nhà văn phòng, một dãy nhà 3 tầng và Công ty coi đó là một hoạt động kinh doanh phụ.
Trước đây, Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội mang tên là Xí nghiệp sửa chữa điện dân dụng, thành lập ngày 20-10-1976 theo QĐ số 421/TCCQ trên cơ sở của một Hợp tác xã hợp nhất cũ. Ngày 23-9-1993 xí nghiệp đổi tên thành Công ty thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội theo QĐ số 5497/ QĐUB của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Từ khi được thành lập đến nay, Công ty đã tự cân đối với năng lực sản xuất thực tế của mình và xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm gửi lên cấp trên duyệt và giao nhiệm vụ chính thức. Vì vậy, Công ty luôn là đơn vị hoàn thành toàn diện kế hoạch nhà nước giao cho. Ngoài ra, Công ty đã chủ động tạo thêm nguồn vật tư, mở rộng thêm một số mặt hàng đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng thêm nguồn vốn tự có của Công ty và tích luỹ cho Nhà nước.
Cơ sở sản xuất của công ty ở cây số 13, quốc lộ 1 thuộc xã Ngọc Hồi, Thanh Trì, Hà Nội với hàng chục loại máy móc, thiết bị ngoại nhập và tự chế dùng cho sản xuất.
Dây điện, mặt hàng chính của công ty được chế tạo bởi nguyên liệu nhập khẩu: đồng dây và nhựa hạt PVC. Quá trình sản xuất bắt đầu từ đồng dây ỉ3. Qua máy kéo rút to, nhỏ xuống ỉ 1.5- ỉ 0.2. Sau đó qua máy bện, bện thành các cụm 12,14,16.... 112 sợi tuỳ cỡ to nhỏ. Từ dây bện qua máy đùn nhựa trở thành dây điện các loại, sau qua máy cuốn thành phẩm thành những cuộn dây điện, dây cáp từ 100 đến 1000 m dây thành phẩm.
2. Chức năng chủ yếu của Công ty:
- Sản xuất và kinh doanh các loại dây điện, cáp điện bọc PVC
- Sản xuất các mặt hàng kim khí: lưới B40, lưới cáo, dây thép gai
- Sửa chữa các loại thiết bị điện, lắp đặt điện nội thất
- Được xuất khẩu các sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh liên kết, được nhập khẩu nguyên liệu vật tư hàng hoá phục vụ cho công ty và nhu cầu thị trường
- Được liên doanh, hợp tác mở cửa hàng đại lý, được làm dịch vụ văn phòng đại diện và nhà khách.
3. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty:
Số lao động trong doanh nghiệp là 114 người, trong đó:
- Công nhân sản xuất là 60 người chiếm 61% trong đó số công nhân bậc cao và kỹ sư là 15 người.
- Nhân viên bán hàng và phục vụ sản xuất là 17 người.
- Cán bộ, nhân viên quản lý: 24 người trong đó 11 người là cử nhân.
Sơ đồ tổ chức quản lý của công ty:
Giám đốc
Phó GĐ kinh doanh
Phó GĐ kỹ thuật
Cửa hàng GTSP
Tổ tiếp thị
Phòng KCS
Phòng KT
Phòng bảo vệ
Phòng hành chính
Phòng tổ chức
Phòng tài vụ
Phòng kế hoạch
PX bện rút
PX PVC
PX cơ khí
Cửa hàng động cơ
3
Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội tổ chức quản lý theo mô hình trực tuyến tham mưu, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh chịu sự chỉ đạo của ban giám đốc. Ban giám đốc lãnh đạo chung và chỉ đạo trực tiếp đến từng phòng ban, phân xưởng. Giám đốc Công ty đứng đầu bộ máy quản lý, là người chịu trách nhiệm chung mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống của cán bộ công nhân viên trong Công ty. Ngoài việc uỷ quyền cho các phó giám đốc, giám đốc còn trực tiếp chỉ huy thông qua các trưởng phòng hoặc quản đốc phân xưởng.
Ban giám đốc Công ty gồm 3 người:
Một giám đốc phụ trách chung.
Một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật.
Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh.
Cơ cấu phòng ban của Công ty để phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, quản lý sản phẩm và lao động phục vụ đời sống cán bộ công nhân viên gồm:
- Phòng kỹ thuật: Có trách nhiệm nghiên cứu thiết kế những sản phẩm áp dụng khoa học công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng và mẫu mã, đáp ứng nhu cầu thị trường và có đủ sức cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại.
- Phòng KCS: Kiểm tra chất lượng, mẫu mã sản phẩm trước khi nhập kho.
- Phòng kế hoạch: Giúp giám đốc nắm bắt về tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty rõ ràng và kịp thời, lập ra các kế hoạch, chiến lược kinh doanh ngắn và dài hạn: ký kết hợp đồng kinh tế, nghiên cứu tìm hiểu mở rộng thị trường, đề ra các kế hoạch cung ứng vật tư, thiết bị công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, thiết lập các cửa hàng đại lý, giới thiệu sản phẩm. Kho trực thuộc phòng kế hoạch gồm 2 kho: kho vật tư.
kho thành phẩm.
- Phòng tài vụ: Có nhiệm vụ đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch về công tác tài chính. Có trách nhiệm trong việc hạch toán chi phí, ghi chép vào sổ sách kế toán, tổ chức công tác kế toán, tài chính theo chế độ hiện hành của bộ tài chính. Cung cấp thường xuyên và đầy đủ những thông tin về tiền tệ, sản phẩm và chi phí... để phục vụ cho lãnh đạo chỉ đạo các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Phòng tài vụ: Cấp phát tiền lương.
Quản lý hoá đơn.
Quản lý tiền.
-Phòng tổ chức: Thực hiện chức năng tổ chức quản lý, sắp xếp cán bộ, công nhân ở các phân xưởng và toàn Công ty cho phù hợp. Thực hiện chế độ về bảo hộ lao động, an toàn, vệ sinh lao động, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, khen thưởng, kỷ luật...theo quy định của nhà nước đối với người lao động. Kiểm tra, theo dõi việc chấp hành kỷ luật lao động và các quy định trong phạm vi Công ty.
Để sản xuất sản phẩm, Công ty có các phân xưởng:
Phân xưởng bện rút.
Phân xưởng PVC.
Phân xưởng cơ khí.
Cửa hàng động cơ.
Cửa hàng giới thiệu sản phẩm.
4. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội:
Dây điện- mặt hàng chính của Công ty được chế tạo bởi nguyên vật liệu nhập khẩu: đồng dây và nhựa PVC. Quá trình sản xuất bắt đầu từ đồng dây f3.2 qua máy kéo rút to, nhỏ xuống f1.5á f 0.2 sau đó qua máy bện, bên thành các cụm 12, 14, 16,..., 112 sợi tuỳ cỡ to nhỏ. Từ dây bện qua máy đùn nhựa trở thành dây điện các loại, sau đó qua máy cuốn thành phẩm thành những cuộn dây điện từ 200á 500m dây thành phẩm.
Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm:
Dây đồng f3.2
Kéo rút dây
f1.5
Kéo rút dây
f 0.2
Bện
ủ mềm
Bọc PVC
Cuộn thành phẩm
Kho thành phẩm
a.Nguyên công kéo rút:
Trong công nghệ sản xuất dây điện và cáp điện, khâu kéo rút là khâu đầu tiên của quá trình sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào là dây đồng có đường kính lớn được rút xuống kích thước quy định, thông thường qua từ 17-24 khuôn kim cương (tuỳ theo kéo thô hay kéo tinh). Thông thường, việc kéo rút được chia làm 2 bước:
Bước 1: kéo thô từ f3.2 xuống f1.
Bước 2: kéo mịn (kéo tinh) từ f1 xuống f0.2 hoặc nhỏ hơn nữa.
-Khuôn kéo: có vai trò rất quan trọng (nhất là khâu kéo mịn) trong việc đảm bảo ra sản phẩm có kích thước ổn định, thường dùng khuôn kim cương tự nhiên hoặc nhân tạo có chất lượng cao.
-Lô kéo: quyết định năng suất và chất lượng dây, bề mặt lô phải chịu được sự mài mòn và có độ cứng vững cao.
-Nước làm nguội và bôi trơn: giữ cho dây luôn sáng bóng và không bị ôxy hoá và làm nguội khuôn thường dùng dung dịch Emulso là loại hoá chất đáp ứng được các yêu cầu trong công nghệ kéo rút.
b.Nguyên công bện dây:
Là công việc kết hợp nhiều sợi dây đồng nhỏ thành một sợi dây đồng lớn, thường có 2 cách:
-Bện bó hay còn gọi là bện rối.
-Bện xếp lớn (thường dùng cho cáp điện cỡ lớn) nhiều sợi dây đồng (tuỳ theo đường kính sợi dây vào) và tiết diện lõi dây từ bộ phận cấp dây qua đĩa phân phối được đưa vào máy bện, nhờ có lồng quay dây được bện với nhau. Sau đó, dây được qua bộ phận thu dây thành bán thành phẩm.
Công nghệ bện phải chú ý đến các bộ phận sau:
+Bộ phận cấp dây.
+Bộ phận bện.
+Bộ phận thu dây.
c.Nguyên công kiểm lõi dây đồng:
Trong quá trình xoắn (bện), thường phải nối tiếp từng loại sợi đồng nhỏ vào lõi dây. Đầu dây nối tiếp thường bị gồ (lồi) nên phải qua máy kiềm để công nhân làm nhẵn phần đầu dây gồ (lồi) bằng thủ công, tạo cho lõi dây trong đều liên tục và chuyển từ lô gỗ qua lô nhôm để đưa vào lò ủ.
d.Nguyên công ủ dây đồng:
Trong quá trình gia công (kéo, rút, bện), dây đồng bị biến cứng bề mặt làm thay đổi cơ tính của vật liệu, phải tiến hành ủ làm mềm dây và khử ứng xuất dư nhưng vẫn đảm bảo màu sắc của dây đồng bằng lò ủ chân không hoặc lò ủ thủ công.
e.Nguyên công bọc nhựa:
Sau khi giải quyết xong ruột dây đồng, tiến hành bọc ngoài bằng một lớp nhựa PVC cách điện trên máy bọc nhựa chuyên dùng. Bộ phận sinh nhiệt được bố trí phía ngoài đầu bọc có thời gian gia nhiệt ban đầu từ 30- 40 độ C, đến khi đạt nhiệt độ chảy mềm của nhựa từ 175- 185 độ C thì vận hành máy để chỉnh tâm giữa lõi dây đồng và khuôn sao cho lớp vỏ nhựa bọc đều, lúc đó mới tiến hành cho máy làm việc liên tục. Thông thường, nhựa cấp cho đầu bọc ở trạng thái liên tục ở 1/3 phễu đựng.
f.Nguyên công cuốn dây thành phẩm:
Dây điện sau khi bọc nhựa được thu thành cuộn lô to gọi là dây bán thành phẩm, sau đó được đưa lên máy cuốn thành phẩm, cuộn thành từng cuộn dây điện có chiều dài 200m, 400m.
5.Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh:
Theo giấy phép kinh doanh số 1057/5, chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là:
Sản xuất và kinh doanh các loại dây điện, cáp điện bọc PVC, các loại dây tráng emay cách điện và các loại đồ dùng điện dân dụng như quạt, biến thế, phích cắm, dụng cụ gia đình...
Sửa chữa các loại thiết bị điện, lắp đặt điện nội thất.
Được xuất khẩu các sản phẩm của Công ty và sản phẩm liên doanh liên kết, được nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng phục vụ cho Công ty và cho nhu cầu thị trường.
Được liên doanh hợp tác mở cửa hàng đại lý được làm dịch vụ văn phòng đại diện và khách hàng.
Bộ phận sản xuất trực tiếp ra sản phẩm dây điện, cáp điện của Công ty gồm 2 phân xưởng lớn:
+ Phân xưởng bện rút gồm 2 tổ: tổ kéo rút và tổ bện.
+ Phân xưởng bọc PVC.
Bên cạnh đó còn có các kho vật liệu, kho công cụ dụng cụ, kho bán thành phẩm và kho thành phẩm.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh:
Kho vật tư
Kho thành phẩm
Tổ bện
Phòng KCS
PX bọc PVC
Tổ kéo rút
Kho bán thành phẩm
6. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán của Công ty:
Để thực hiện tốt chức năng kế toán, điều cốt yếu là phải tổ chức được bộ máy kế toán phù hợp, làm việc có hiệu quả. Có thể nói, bộ máy
kế toán là cầu nối giữa nội dung và hình thức kế toán. Bộ máy kế toán được tổ chức tốt, làm việc có hiệu quả sẽ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nói chung.
Công ty Thiết bị kỹ thuật điện Hà Nội là doanh nghiệp có quy mô vừa, hoạt động chủ yếu trên địa bàn Hà Nội. Việc tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty tập trung tại mặt bằng 14-16 Hàm Long, Hà Nội. Do đặc điểm trên cộng với giới hạn về lao động kế toán nên Công ty tổ chức bộ máy kế toán theo hình thức tập trung. Công tác kế toán được phân công cụ thể như sau:
Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán:
Kế toán trưởng
Kế toán vật tư và tiền lương
Thủ quỹ
Kế toán tính giá tiêu thụ, thanh toán công nợ
-Kế toán trưởng ( Trưởng phòng tài vụ): là người phụ trách chung và lập các Báo cáo tài chính. Ngoài ra, kế toán trưởng cũng phụ trách công tác quản lý Tài sản, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, hàng quí tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định cho từng đơn vị sử dụng.
Một nhân viên kế toán phụ trách tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm, theo dõi tình hình tiêu thụ và thanh toán công nợ.
Một nhân viên kế toán phụ trách vật tư và tiền lương.
Một thủ quỹ quản lý việc thu chi tiền mặt, lập sổ quỹ trên cơ sở các chứng từ hợp lý.
7.Một số chỉ tiêu sản xuất kinh doanh năm 2003:
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Kế hoạch
Thực hiện
HTKH(%)
1
Giá trị tổng sản lượng
Triệu đồng
11.000
12.000
109,1
2
Doanh thu
Triệu đồng
12.500
14.200
113,6
3
Sản phẩm chủ yếu
Dây cáp điện các loại
mét
2.000.000
2.200.000
110
4
a.
b.
Các chỉ tiêu tài chính
Các khoản tích luỹ
-Thuế VAT
-Thuế vốn
-TNDN
-Trích khấu hao cơ bản
Cáckhoản nộp NSNN
-Thuế VAT
-Thuế vốn
-Thuế thu nhập DN
-Khoản khác
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
Triệu đồng
350
75
200
370
370
80
63
10,4
370
83
106
420
360
70
63
10,4
105,7
110,6
53
113,5
97,29
87,5
100
100
5
Thu nhập bình quân đầu người / tháng
650
710
109,2
Những chỉ tiêu trên phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2003 trong bối cảnh tình hình tài chính cực kỳ khó khăn bởi đầu năm 2000, theo quyết định sáp nhập của UBNDTP Hà Nội, công ty đã tiếp nhận 1 xí nghiệp làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất, không còn khả năng thanh toán, giá trị còn lại của TSCĐ trên thực tế bằng 1/10 giá trị TSCĐ trên sổ sách. Cụ thể:
- Lỗ 1,8 tỷ đồng
- Treo lương: 420 triệu đồng
- Giá trị còn lại trên sổ sách: 2 tỷ đồng – thực tế chỉ còn xấp xỉ 300 triệu đồng
- Nợ quá hạn ngân hàng: 1,2 tỷ đồng
Năm 2003, với sự quyết tâm của tập thể lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã đề nhiều biện pháp tháo gỡ được phần nào khó khăn trên:
- Công ty đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm
- Đề ra một loạt các quy định, quy chế nhằm thúc đẩy công tác tiêu thụ sản phẩm và thanh toán tiền hàng.
- Quản lý sát xao đầu vào, nguyên vật liệu chính, phụ được mua theo yêu cầu sản xuất và kiểm tra chất lượng, không để tình trạng tồn kho vật tư như trước
- Trong sản xuất, tiến hành quyết toán từng đơn hàng, từ đó phát hiện, có những biện pháp ngăn chặn kịp thời sản phẩm hỏng trong sản xuất.
- Phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, có quy chế thưởng phạt rõ ràng, làm đòn bẩy thúc đẩy tinh thần tự giác và trách nhiệm trong kết quả sản xuất của từng cá nhân người lao động.
Tuy nhiên, với đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật còn yếu và thiếu như hiện nay đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển và hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Phần Ii
THựC TRạNG CÔNG TáC QUảN Lý VốN CủA CÔNG TY Thiết bị kỹ thuật đIện hà nội
Một số vấn đề lý luận chung:
Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, gắn liền với sản xuất hàng hoá.Vốn là tiền nhưng tiền chưa hẳn đã là vốn, tiền chỉ trở thành vốn khi nó hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
Vốn sản xuất trong doanh nghiệp công nghiệp được chia thành hai bộ phận là: vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định:
Vốn cố định trong doanh nghiệp được biểu hiện bằng hình thái giá trị còn lại của các tài sản cố định đang dùng trong sản xuất.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định, doanh nghiệp cần phải kiểm tra tài chính. Đây là một nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh nghiệp, thông qua đó để có được các căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết định về mặt tài chính như điều chỉnh quy mô và cơ cấu vốn đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hoá tài sản cố định…nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Để làm được điều này, doanh nghiệp cần xác định đúng đắn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và tài sản cố định của doanh nghiệp.
Thuộc các chỉ tiêu tổng hợp có:
-Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
=
Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ:
=
+
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Số vốn cố định đầu kỳ
Số vốn cố định cuối kỳ
2
Trong đó số vốn cố định ở đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) được tính theo công thức:
Số vốn cố định ở đầu kỳ
(hoặc cuối kỳ)
=
Nguyên giá TSCĐ ở đầu kỳ
(hoặc cuối kỳ)
-
Số tiền khấu hao luỹ kế ở đầu kỳ (hoặc cuối kỳ)
Số tiền khấu hao luỹ kế ở cuối kỳ
=
Số tiền khấu hao ở đầu kỳ
+
Số tiền khấu hao tăng trong kỳ
-
Số tiền khấu hao giảm trong kỳ
-Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định:
=
Hàm lượng vốn cố định
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
-Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập).
100%
x
=
Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế thu nhập)
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Ngoài các chỉ tiêu tổng hợp trên, người ta còn có thể sử dụng một số chỉ tiêu phân tích sau:
-Hệ số hao mòn TSCĐ: phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. Hệ số càng lớn chứng tỏ mức độ hao mòn TSCĐ càng cao và ngược lại.
=
Hệ số hao mòn TSCĐ
Số tiền khấu hao luỹ kế
Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
-Hiệu suất sử dụng TSCĐ: phản ánh 1 đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần. Hiệu suất càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao.
=
Hiệu suất sử dụng TSCĐ
Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
-Hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân trực tiếp sản xuất: Phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất. Hệ số càng lớn phản ánh mức độ trang bị TSCĐ cho sản xuất của doanh nghiệp càng cao.
=
Hệ số trang bị TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất
-Tỷ suất đầu tư TSCĐ: phản ánh đầu tư vào TSCĐ trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Tỷ suất càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vào TSCĐ.
100%
x
=
Tỷ suất đầu tư TSCĐ
Giá trị còn lại của TSCĐ
Tổng tài sản
-Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp.
Vốn lưu động:
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn lưu thông để đảm bảo cho sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp tiến hành bình thường.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp có thể sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
-Tốc độ luân chuyển vốn lưu động:
Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.Tốc độ luân chuyển vốn lưu động có thể đo bằng hai chỉ tiêu:
+Số lần luân chuyển (số vòng quay vốn): phản ánh số vòng quay vốn được thực trong một thời kỳ nhất định, thường tính trong một năm. Công thức như sau:
L =
M
VLĐ
Trong đó:
L: Số lần luân chuyển (số vong quay) của vốn lưu động trong năm.
M: Tổng mức luân chuyển vốn trong năm.
VLĐ: Vốn lưu động bình quân trong năm.
+Kỳ luân chuyển vốn: phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động. Công thức như sau:
VLĐ x 360
K=
M
Hay
K=
360
L
Trong đó:
K: kỳ luân chuyển vốn lưu động.
M: tổng mức luân chuyển vốn trong năm.
VLĐ: vốn lưu động bình quân trong năm
Vòng quay vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
-Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển: được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu:
+Mức tiết kiệm tuyệt đối: là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tiết kiệm được một số vốn lưu động để sử dụng vào công việc khác.
Công thức tính:
VTKTĐ = [(M1/ 360) x K1] - VLĐO =VLĐ1 - VLĐ0
Trong đó:
VTKTĐ: Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối.
VLĐO , VLĐ1 :Vốn lưu động bình quân năm báo cáo và năm kế
hoạch.
M1: Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch.
K1: Kỳ luân chuyển vốn năm kế hoạch.
+Mức tiết kiệm tương đối: là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy mô vốn lưu động.
Công thức tính:
VTKTgĐ= ( M1 / 360 ) x ( K1 – K0 )
Hoặc
VTKTgĐ= ( M1 / L1) – ( M1 / L0 )
Trong đó:
VTKTgĐ: Vốn lưu động tiết kiệm tương đối.
M1: Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch.
L0 , L1: Số lần luân chuyển vốn năm báo cáo và năm kế hoạch.
K0 , K1: Kỳ luân chuyển vốn năm báo cáo và năm kế hoạch.
-Hiệu suất sử dụng vốn lưu động: phản ánh một đồng vốn lưu động có thể làm ra bao nhiêu đồng doanh thu. Để tính chỉ tiêu này, người ta lấy doanh thu chia cho số vốn lưu động bình quân trong kỳ. Số doanh thu được tạo ra trên một đồng vốn lưu động càng lớn thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao.
-Hàm lượng vốn lưu động (hay còn gọi là mức đảm nhận vốn lưu động): là số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động và được tính bằng cách lâý số vốn lưu động bình quân trong kỳ chia cho tổng doanh thu thực hiện trong kỳ.
-Tỷ suất lợi nhuận (mức doanh lợi) vốn lưu động:
Được tính bằng cách lấy tổng số lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập) chia cho số vốn lưu động bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập). Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05.doc