Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông “. Quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ lâu là một tất yếu khách quan. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao lưu văn hoá và thương mại đã trở thành một quan hệ truyền thống bền vững. Những biến động chính trị xã hội trong lịch sử có những lúc thăng trầm nhưng chưa bao giờ làm triệt tiêu được mối quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chính vì vậy, quan hệ hai nước đã trở lại bình thường hoá vào cuối năm 1991. Từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước nói chung và trên lĩnh vực thương mại nói riêng đã phát triển ngày càng mạnh, ngày càng bền vững và “đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.”
Bước vào thế kỷ XXI, công cuộc đổi mới và cải cách ở cả hai nước Việt Nam – Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới . Vì vậy, việc củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng - hai nước theo phương châm 16 chữ vàng: “Láng Giềng Hữu Nghị, Hợp Tác Toàn Diện, Ổn Định Lâu Dài, Hướng tới tương lai ” không những đáp ứng nguyện vọng và lợi ích cơ bản lâu dài của nhân dân hai nước mà còn phù hợp vơí xu thế hoà bình và phát triển khu vực cũng như trên thế giới .
Năm 2003, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 4, 540 tỷ USD và Trung Quốc đã trở thành bạn hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Con số này sẽ tăng nhanh trong năm 2004 và dự kiến sẽ đạt 5 tỷ USD vào năm 2005 và 10 tỷ USD vào năm 2010.
Có được kết quả nêu trên là do sự nỗ lực của Chính phủ và doanh nghiệp cả hai nước trong hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại, đặc biệt là trong hoạt động thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
Phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng trong quá trình viết báo cáo là sự kết hợp những kiến thức đã tích luỹ trong quá trình học tập với những quan sát đã thu thập từ thực tế, kết hợp tổng hợp sách báo, các số liệu thống kê với việc đi sâu phân tích tình hình thực tế nhằm tạo ra một hướng đi hợp lý và thống nhất để giải quyết vấn đề đặt ra trong báo cáo này .
Nội dung của báo cáo gồm ba chương :
Chương I : Các vấn đề cơ bản về quan hệ kinh tế quốc tế .
Chương II : Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc .
Chương III : Phương hướng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước .
59 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Báo cáo Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
III. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT – TRUNG. 31
1. Phát triển thương mại làm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng biên giới. 31
2. Quan hệ thương mại Việt - Trung có tác động tương hỗ, thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển. 33
2.1. Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn. 33
2.2. Thúc đẩy phát triển công nghiệp. 34
2.3. Thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng khu vực biên giới. 35
2.4. Mở rộng hoạt động du lịch. 36
2.5. Góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế và thúc đẩy sự ra đời một số trung tâm kinh tế quan trọng. 36
2.6. Cải thiện đời sống nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc. 37
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI HAI NƯỚC 39
1. Xây dựng kế hoạch cụ thể cho phát triển kinh tế các tỉnh biên giới phía Bắc. 39
2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi cho phát triển kinh tế cửa khẩu biên giới. 40
3. Hoàn thiện hệ thống chính sách điều hành hoạt động xuất nhập khẩu. 41
4. Thu hút đầu tư trực tiếp từ phía Trung Quốc. 44
5. Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. 45
5.1. Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. 45
5.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa. 46
5.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về kinh tế. 47
5.4. Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng kết hợp với giải quyết các chính sách xã hội. 48
5.5. Tăng cường trách nhiệm của các lực lượng chức năng quản lý biên giới cửa khẩu. 49
5.6. Đề cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp: 51
6. Tổ chức nghiên cứu thị trường Trung Quốc. 52
KẾT LUẬN 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 56
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Bảng 1 : Kim ngạch XNK hàng hoá hai chiều 20
Bảng 2 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc trong 2 năm (2009-2010). 22
Bảng 3 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt nam nhập khẩu từ Trung Quốc trong 2 năm (2008 - 2009) 24
Bảng 4: Số liệu về hoạt động đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam các năm 2000- 2010 28
Bảng 5: Số người kinh doanh thương mại, dịch vụ công cộng và dịch vụ tư nhân 32
Bảng 6 : GDP bình quân đầu người ( USD ) năm 2000 - 2010 38
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông “. Quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ lâu là một tất yếu khách quan. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng giềng, quan hệ giao lưu văn hoá và thương mại đã trở thành một quan hệ truyền thống bền vững. Những biến động chính trị xã hội trong lịch sử có những lúc thăng trầm nhưng chưa bao giờ làm triệt tiêu được mối quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chính vì vậy, quan hệ hai nước đã trở lại bình thường hoá vào cuối năm 1991. Từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước nói chung và trên lĩnh vực thương mại nói riêng đã phát triển ngày càng mạnh, ngày càng bền vững và “đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.”
Bước vào thế kỷ XXI, công cuộc đổi mới và cải cách ở cả hai nước Việt Nam – Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới . Vì vậy, việc củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng - hai nước theo phương châm 16 chữ vàng: “Láng Giềng Hữu Nghị, Hợp Tác Toàn Diện, Ổn Định Lâu Dài, Hướng tới tương lai ” không những đáp ứng nguyện vọng và lợi ích cơ bản lâu dài của nhân dân hai nước mà còn phù hợp vơí xu thế hoà bình và phát triển khu vực cũng như trên thế giới .
Năm 2003, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 4, 540 tỷ USD và Trung Quốc đã trở thành bạn hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Con số này sẽ tăng nhanh trong năm 2004 và dự kiến sẽ đạt 5 tỷ USD vào năm 2005 và 10 tỷ USD vào năm 2010.
Có được kết quả nêu trên là do sự nỗ lực của Chính phủ và doanh nghiệp cả hai nước trong hoạt động hợp tác kinh tế - thương mại, đặc biệt là trong hoạt động thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
Phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng trong quá trình viết báo cáo là sự kết hợp những kiến thức đã tích luỹ trong quá trình học tập với những quan sát đã thu thập từ thực tế, kết hợp tổng hợp sách báo, các số liệu thống kê với việc đi sâu phân tích tình hình thực tế nhằm tạo ra một hướng đi hợp lý và thống nhất để giải quyết vấn đề đặt ra trong báo cáo này .
Nội dung của báo cáo gồm ba chương :
Chương I : Các vấn đề cơ bản về quan hệ kinh tế quốc tế .
Chương II : Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc .
Chương III : Phương hướng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước .
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT- TRUNG.
Kể từ khi Việt Nam lập quốc, do nhu cầu giao lưu tự nhiên của cư dân hai nước, Vịêt Nam và Trung Quốc đã sớm thiết lập mối quan hệ bang giao nói chung và quan hệ kinh tế - thương mại nói riêng. Trong các giai đoạn lịch sử, hai nước đều sự chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, thường thiếu sự chú ý đến các hoạt động kinh tế nên trong các bộ sử nội dung viết về vấn đề kinh tế không nhiều. Mặt khác do tình hình chính trị của mỗi nước, đặc biệt là chiến tranh giữa các vương triều, đã gây khó khăn làm gián đoạn mối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Tuy nhiên, những gián đoạn, những khoảng trống vắng trong quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế- thương mại nói riêng cũng chỉ có ý nghĩa nhất thời vì quan hệ giao lưu buôn bán giữa hai nước đã được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử kể từ khi hai nước lập quốc. Dưới các triều đại phong kiến quan hệ trao đổi buôn bán mới chỉ dừng ở phạm vi hẹp nhưng cũng mang một ý nghĩa rất quan trọng cho sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong quá trình lịch sử.
Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX quan hệ kinh tế giữa hai nước có những đặc điểm nổi bật sau đây:
- Ngay từ xa xưa quan hệ kinh tế thương mại đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia, việc buôn bán từ nước ngoài thường mang về lợi nhuận cao hơn, hơn nữa thông qua hoạt động buôn bán qua biên giới làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của bộ máy quân chủ của hai nước.
- Chính sách xuyên suốt trong lịch sử các vương triều Việt Nam là độc lập tự chủ, luôn áp dụng nguyên tắc “hoà hiếu với phương Bắc “, nới lỏng, cho tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá, miễn là tôn trọng, thực hiện đúng pháp luật Việt Nam .- Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc trong suốt hơn 20 thế kỷ không phải diễn ra bình lặng, mà quan hệ kinh tế ấy có những biến động thăng trầm phụ thuộc vào quan hệ chính trị giữa hai quốc gia.
- Mặc dù cả hai nước phong kiến Việt Nam và Trung Quốc trong nhiều thời gian dài thực hiện chính sách “ Bế quan, toả cảng “ song các hoạt động kinh tế, nhất là hoạt động trao đổi buôn bán ở vùng biên giới Việt - Trung vẫn diễn ra, vượt khỏi sự cấm đoán của triều đình trung ương .
- Trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc suốt hơn 20 thế kỷ, thì phần ưu thế, thường thuộc về các thương nhân Trung Quốc hơn là thương nhân Việt Nam. Điều này cho thấy khả năng vươn xa của và việc tổ chức buôn bán của thương nhân Việt Nam còn có nhiều hạn chế .
1.1.1. Giai đoạn sau khi hai nước giành được độc lập
Từ khi hai nước giành được độc lập cho đến những năm 80 của thế kỷ 20 , quan hệ kinh tế giữa hai nước được chia ra làm 4 giai đoạn chính sau đây:
Giai đoạn 1950 - 1954:
Sau chiến thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn được giải phóng đã tạo điều kiện cho giao lưu buôn bán trao đổi hàng hoá của nhân dân hai bên biên giới. Tháng 9/1951 Chính phủ hai nước Việt - Trung đã ký các hiệp định về mậu dịch, Hiệp định về tiền tệ và Hợp đồng xuất nhập khẩu. Đồng thời thành lập các Ty quản lý xuất nhập khẩu ở Lạng Sơn, Cao Bằng và các Đồn quản lý xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu biên giới. Một số công ty xuất nhập khẩu ở các tuyến được ra đời dưới sự lãnh đạo của Bộ Công thương để làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu hàng hoá. Tháng 2/1953 cửa khẩu Lào Cai được mở cửa thông thương buôn bán với Hồ Kiều của Trung Quốc. Từ dầu năm 1954 công cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của nhân dân ta đã tiến triển mạnh mẽ. Hội nghị toàn quốc lần thứ tư bàn về đấu tranh kinh tế với địch họp tại Việt Bắc đã nêu rõ chủ trương tích cực đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết phục vụ sản xuất và chiến đấu. Chính phủ ta khuyến khích trao đổi một số mặt hàng như sa nhân, cà phê với Trung Quốc. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho buôn bán dân gian qua biên giới Chính phủ ta đã ban hành nghị định 391/TTg về quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân biên giới Việt - Trung.
Giai đoạn từ 1954 -1964
Đây là thời kỳ khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngày 10/2/1955 đã khánh thành đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hoá từ Thủ đô lên biên giới phía Bắc để trao đổi hàng hoá với Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Ngày 7/7/1955 Chính phủ ta đã ký với Trung Quốc Nghị định thư về trao đổi hàng hoá giữa các công ty mậu dịch địa phương vùng biên giới và Hiệp định viện trợ.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế kỳ họp khoá 8 Quốc hội Việt Nam đã quyết định chia Bộ Thương nghiệp ra thành Bộ Nội thương và Bộ ngoại thương. Với sự thay đổi lại tổ chức, công tác xuất nhập khẩu đã trưởng thành thêm một bước, hàng loạt các công ty xuất nhập khẩu biên giới được thành lập với nhiệm vụ trao đổi hàng hoá và nhận hàng viện trợ qua biên giới Việt - Trung .
Giai đoạn từ 1965 - 1975
Trong khi Việt Nam tiến hành công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thì từ những năm 1966 Trung Quốc bắt đầu tiến hành “ Đại cách mạng văn hoá vô sản “ , cuộc đại cách mạng này kết thúc vào năm 1976. Mặc dù thời kỳ đó tình hình xã hội Trung Quốc hỗn loạn nhưng quan hệ giữa Chính Phủ Việt Nam và Chính Phủ Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp. Việt Nam tiếp tục củng cố thêm một bước các tổ chức ngoại thương của mình, hoàn chỉnh các chính sách chế độ về mậu dịch đối ngoại, đồng thời tăng cường sự hợp tác giúp đỡ của phía Trung Quốc nhằm khắc phục những khó khăn trong thời chiến .
Hàng năm Chính phủ phê duyệt cho Bộ ngoại thương được phép cử đoàn đại diện tham dự Hội chợ Quảng Châu Trung Quốc, để giao dịch với các công ty Trung Quốc và các thương nhân của các nước khác, nghiên cứu các kinh nghiệm làm ăn và chuẩn bị hàng xuất khẩu. Tháng 7/1965 Chính phủ Việt Nam ký với Trung Quốc Nghị định thư về việc chuyển tải hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời chiến qua các cảng của Trung Quốc. Chính Phủ ta đã đề nghị với Chính Phủ Trung Quốc cho phép thành lập một số trạm tiếp nhận và điều chuyển hàng viện trợ của các nước và hàng xuất khẩu của Việt Nam trên đất Trung Quốc ( ở Mãn Châu Lý, Nam Ninh, Côn Minh, Hoàng Phố, Trạm Giang). Từ 1967 đến 1975 Chính phủ ta và Trung Quốc lần lượt ký các Hiệp định, Nghị định thư và thư trao đổi về việc Chính phủ Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, viện trợ bệnh viện, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho Việt Nam; viện trợ kinh tế và quân sự, viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam; cung cấp vật tư, cung cấp thiết bị lẻ cho đài phát thanh. Có thể nói rằng hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ này tập trung chủ yếu vào việc vận chuyển hàng viện trợ từ Trung Quốc và các nước anh em khác phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam.
Giai đoạn từ 1976 - 1978
Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng miền Nam, Việt Nam đã tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước bầu ra Quốc hội của cả nước Việt Nam thống nhất. Cũng trong thời gian đó cuộc “ đại cách mạng văn hoá vô sản “ kết thúc, Trung Quốc thực sự bước vào thời kỳ cải cách mở cửa. Trong giai đoạn này Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục ký các Hiệp định trao đổi hàng hoá và thanh toán.
Mặc dù mậu dịch biên giới Việt - Trung có nhiều lợi thế đối với nhân dân vùng biên của hai nước, không thị trường nào có thể so sánh được, đó là thị trường gần, vị trí núi liền núi, sông liền sông, nhân dân hai nước có quan hệ truyền thống lâu đời, hàng hoá hai bên bổ sung cho nhau. Nhưng từ năm 1978 trở về trước buôn bán qua biên giới Việt - Trung còn giới hạn ở mức nhỏ bé không đáng kể , chủ yếu là các hoạt động mua bán dân gian tự phát do nhu cầu sinh hoạt thông thường điều tiết. Phía Việt Nam bán sang Trung Quốc một số hàng nông lâm thổ sản, muối biển, gia súc... . Phía Trung Quốc bán sang Việt Nam một số hoa quả tươi, một số hàng công nghiệp nhẹ tiêu dùng như vải vóc, quần áo may sẵn, một số đồ gia dụng, công cụ sản suất ...
Mậu dịch biên giới Việt - Trung từ năm 1978 trở về trước chưa thể phát triển mạnh được chủ yếu là vì nền kinh tế của hai nước chưa phát triển. Kinh tế vùng biên giới của hai nước đều là kinh tế miền núi, mang nặng tính tự cung tự cấp, lạc hậu, phân tán, cư dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số văn hoá chậm phát triển.
1.1.2. Giai đoạn sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ
Từ sau năm 1978, quan hệ hữu nghị của hai nước có phần lắng xuống, khu vực biên giới trở thành những điểm nóng về an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội đã phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới. Quan hệ kinh tế thương mại bị ngừng trệ, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế của hai nước và đặc biệt là kinh tế khu vực cửa khẩu biên giới.
Sau nhiều nỗ lực cố gắng của cả hai bên, quan hệ giữa hai nước đã khởi sắc và trở lại bình thường hoá vào cuối năm 1991. Từ đó cho đến nay, quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế - thương mại nói riêng, đã phát triển ngày càng mạnh, ngày càng bền vững và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của cả hai nước.
Từ khi hai nước bình thường hoá đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên đã tăng lên nhanh chóng, hàng hoá trao đổi qua các cửa khẩu biên giới Việt -Trung hết sức nhộn nhịp, thị trường ở đây đã sớm trở thành nơi sôi động nhất của nước ta, đặc biệt là ở các cửa khẩu Quảng Ninh, Lạng Sơn , Cao Bằng và Lào Cai. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước từ năm 1991 trở lại đây không ngừng phát triển với qui mô khá lớn, tuy nhiên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước năm 1991 chỉ đạt 37,7 triệu USD đến năm 1993 đã là 221,2 triệu USD và đặc biệt năm 2002 đạt trên 3,6 tỷ USD, tăng 97 lần so với năm 1991. Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng, ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dầu thô, cao su, hải sản... hai bên đã bổ sung một số mặt hàng có thế mạnh khác. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến như sản phẩm cà phê hoà tan, hạt điều đã qua chế biến, dầu ăn và một số hàng tiểu thủ công nghiệp và hàng tiêu dùng khác cũng đã và đang dần chiếm được thị trưởng ở Trung Quốc. Về phía Trung Quốc áp dụng chính sách mậu dịch biên giới, hỗ trợ và đặc biệt ưu đãi cho thương mại biên giới nhằm khai thác triệt để thị trường các nước láng giềng cho tiêu thu hàng hoá tiêu dùng của Trung Quốc. Cũng do thành công trong phương thức buôn bán biên mậu biên giới, trong những năm qua, hàng hoá của Trung Quốc đã chiếm được thị trường của Việt Nam. Có thể nói, ở đâu cũng có hàng hoá của Trung Quốc.
Qua nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế - thương mại nói riêng cho thấy rằng, sự ổn định về an ninh, chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong quan hệ nhiều mặt giữa hai nước. Như đã biết, Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, có nhiều nét tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội với Việt Nam. Bản thân nền kinh tế Việt Nam ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trước đây đã có sự giúp đỡ của Trung Quốc. Chính vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đồng thời tạo sự ổn định về quan hệ chính trị giữa hai nước là vấn đề hết sức cần thiết.
1.2. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT - TRUNG LÀ MỘT XU THẾ TẤT YẾU
1.2.1. Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực
Tình hình khu vực cũng như quốc tế vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 có những thay đổi cực kỳ sâu sắc. Sự tan rã của Liên Xô vào tháng 9/1991 đã đánh dấu sự kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh. Từ đây thế giới bước vào một thời kỳ mới. Các nước lớn đều tiến hành điều chỉnh chiến lược toàn cầu và chính sách đối ngoại của mình. Hoà bình và phát triển đã trở thành trào lưu chính của thời đại. Trên thế giới, các nước dù lớn hay nhỏ đều tranh thủ môi trường quốc tế hoà bình để tập trung lực lượng cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế của nước mình.
Tình hình quốc tế trên đây đã có những tác động mạnh mẽ đến tình hình khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Trong khu vực Đông Nam Á, xu thế hoà hoãn giữa các nước và nhóm nước trong khu vực với các nước lớn đã xuất hiện. Các nước trong khu vực cũng điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt mối quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN ( 5 nước trước đây ) cũng như quan hệ giữa các nước này với Trung Quốc đã từng bước được cải thiện. Từ năm 1989, lần lượt các nước Lào, Indônêxia... đã bình thường hoá và quan hệ với Trung Quốc; còn các nước Xingapo, Brunây cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Như vậy, sự kết thúc của chiến tranh lạnh đã làm cho những xung đột về chính trị và hệ tư tưởng trong khu vực giảm đi rất nhiều, đối thoại thay cho đối đầu. Mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá không chi trở thành xu thế chung giữa các nước trong khu vực, mà còn là đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng kinh tế ở mỗi quốc gia.
1.2.2. Tình hình riêng của hai nước đầu những năm 90
Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có hoàn cảnh địa lý gần gũi, có truyền thống văn hoá tương đồng, gắn bó với nhau. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ nhiều giá trị chung của nền văn minh phương đông. Việt Nam tiếp thu nhiều giá trị về văn hoá và tôn giáo Trung hoa cổ đại: đạo Khổng, thơ Đường của Trung Quốc được trân trọng ở Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, truyền thống, đã trải qua thử thách của thời gian và những thành tích đạt được trong những năm qua tạo tiền đề tốt đẹp cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ Việt - Trung. Những yếu tố quan trọng thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trong thời gian qua.
Trước hết, Việt Nam - Trung Quốc có nét tương đồng về văn hoá, có phong tục tập quán Á Đông tương đối giống nhau. Có thể nói, sự tương đồng về văn hoá và sự gần gũi về phong tục tập quán nảy sinh từ nền văn minh lúa nước là nhân tố hết sức quan trọng tạo nên truyền thống láng giềng hoà mục, hữu hảo, gần gũi và dễ thông cảm lẫn nhau trong giao lưu, quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt - Trung từ bao đời nay.
Thứ hai, hai nước Việt Nam - Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông và có chung biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và biển Đông. Yếu tố địa lý này khác với biên giới giữa Trung Quốc với Thái Lan, Lào và Mianma. Đây là yếu tố thuận lợi tạo dựng nên mối quan hệ giao lưu văn hoá, thông thương kinh tế, buôn bán và giúp đỡ lẫn nhau cuộc đấu tranh cách mạng giữ nước của mỗi bên. Nhân dân các dân tộc thiểu số sống hai bên biên giới từ bao đời nay đã hình thành quan hệ thân tộc. Mối giao hoà láng giềng thân thiện đó đã tạo nên tình cảm gắn bó “ Tắm chung một dòng sông”, “ Nghe chung tiếng gà gáy “, “gặp nhau như anh em một nhà”.
Thứ ba, về thể chế chính trị, Việt Nam và Trung Quốc có thể chế chính trị giống nhau, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trung thành với Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Hai nước đều kiên trì xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Đặc biệt trong hoàn cảnh CNXH tạm thời đang trong giai đoạn khó khăn, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang gánh vác trọng trách bảo vệ vai trò lãnh đạo bền vững của Đảng Cộng Sản và sức sống mạnh mẽ của CNXH .
Thứ tư, về kinh tế, Hai nước Việt - Trung đều có tiềm năng to lớn trong nhiều lĩnh vực hợp tác kinh tế, mậu dịch và đầu tư vì lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên. Hai nước đã có chung đường biên giới trên bộ, trên biển là điều kiện thuận lợi cho hai bên thông thương mậu dịch, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Trung Quốc là thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng, có sức tiêu thụ lớn của của một thị trường trên 1,2 tỷ dân. Việt Nam là quốc gia thuộc hàng trung bình trên thế giới, sấp xỉ 80 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên nhiên phong phú, nguyên liệu sản xuất dồi dào. Đó là những yếu tố bổ sung, hỗ trợ cho nhau vì chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước và tiến trình tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực, toàn cầu.
Trong bối cảnh chung của tình hình Quốc tế và khu vực nêu trên, tình hình riêng của Việt Nam và Trung Quốc cũng có những thay đổi theo chiều hướng thuận lợi.
Về phía Việt Nam, trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình quốc tế và khu vực, Đại hội đảng VI Đảng Cộng Sản Việt Nam họp tháng 12 năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới. Một thành tựu về đổi mới tư duy của Đại hội Đảng VI là đã rút ra 4 bài học cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo vệ tổ quốc, trong đó bài học thứ 3 là “ Phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới “. Cũng trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta xác định “ Việt Nam sẵn sằng là bạn của tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Trong quan hệ đối ngoại , Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, sau một thời gian dài bị đình trệ do những sai lầm “tả” khuynh, Hội nghị Trung ương 3 khoá XI Đảng Cộng Sản Trung Quốc họp cuối tháng 12 năm 1978 đã quyết định dịch chuyển trong tâm công tác của toàn Đảng từ chỗ lấy đấu tranh giai cấp làm chính sang lấy xây dựng kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, mở đầu cho công cuộc cải cách mở cửa. Để phục vụ cho công cuộc cải cách ở trong nước, trong lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc đã tiến hành những điều chỉnh lớn trong quan hệ với các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nga, Nhật và Tây Âu. Trung Quốc cũng từng bước thực hiện bình thường hoá quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc cũng thể hiện những thiện chí của mình đối với việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Như vậy với một mục tiêu chung là bình thường hoá quan hệ, ngày 4/9/1990 tại Tứ Xuyên đã diễn ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước để bàn về vấn đề bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và một số vấn đề khác mà hai bên cùng quan tâm. Sau nhiều lần đàm phán hai nước đã đi đến thống nhất và khẳng định: “ Việc bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước và cũng có lợi cho hoà bình, ổn định và sự phát triển của khu vực “. Về kinh tế, hai bên nhất trí thúc đẩy sự hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và văn hoá theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Có thể nói, cuộc gặp cấp cao này đã đưa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bước sang một giai đoạn mới, với tính chất và nội dung hết sức mới trên cơ sở 5 nguyên tắc: Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình.
1.3. NHỮNG CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA HAI NƯỚC.
1.3.1. Những Hiệp định và các cặp cửa khẩu biên giới được mở là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi cho quan hệ kinh tế, thương mại phát triển.
Với quyết tâm xây dựng mối quan hệ kinh tế lâu dài, bền vững, từ tháng 11 năm 1991 đến nay, Chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc đã cùng nhau ký kết nhiều Hiệp định kinh tế thương mại quan trọng như: Hiệp định thương mại giữa hai nước, Hiệp định tạm thời giải quyết công việc vùng biên giới( hai hiệp định này được ký tại Bắc Kinh trong chuyến đi thăm chính thức Trung Quốc lần thứ nhất của Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngày 5 tháng 11 năm 1991); Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc( ký tại Hà Nội nhân dịp Phó thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham sang thăm Việt Nam, tháng 2 năm 1992); Hiệp định về hợp tác kinh tế kỹ thuật; Hiệp định về hợp tác khoa học kỹ thuật được ký tại Hà Nội nhân dịp Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm chính thức Việt Nam đầu tháng 12 năm 1992; Hiệp định về thanh toán và hợp tác giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng nhân dân Trung Quốc được ký vào ngày 26 thán 5 năm 1993 tại Bắc Kinh; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về hàng hoá quá cảnh vào ngày 9 tháng 4 năm 1994 tại Hà Nội; Hiệp định về thành lập Uỷ ban hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu; Hiệp định về vận tải đường bộ, bộ ba Hiệp định này được ký ngày 19 tháng 11 năm 1994 tại Hà Nội nhân chuyến đi thăm chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng Ho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112685.doc