Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004
Những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo là một
trong những câu chuyện thành công nhất trong quá trình phát triển kinh tế. Phải công
nhận rằng không có định nghĩa duy nhất nào vềnghèo đói, và vì vậy không có chỉsố
chính xác để đo được những thay đổi vềnghèo theo thời gian. Nghèo đói là tình trạng
kiệt quệbao gồm nhiều khía cạnh, từthu nhập hạn chế đến tính dễbịtổn thương khi
gặp phải những tai ương bất ngờvà ít có khảnăng tham gia vào quá trình ra quyết
định chung. Song, phương pháp dựa vào chi phí đểtính các chỉsốvềnghèo đã cho
một hướng giải quyết hợp lý, cho phép so sánh giữa các vùng khác nhau theo thời
gian. Dựa trên phương pháp này và sửdụng ngưỡng nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế,
thì thành công trong giảm nghèo của Việt Nam rất đáng ghi nhận. Năm 1993 vẫn còn
58% dân sốsống trong nghèo đói so với 37% năm 1998 và 29% năm 2002. Điều này
dẫn đến giảm một nửa tỷlệdân sốsống dưới ngưỡng nghèo trong vòng chưa đầy một
thập kỷ. Hoặc nói một cách khác, hầu như1/3 tổng dân số đã được thoát khỏi nghèo
đói trong chưa đầy 10 năm vừa qua. Con sốchính xác có thểthay đổi nếu nhưnhững
tiêu chí khác được sửdụng đểxác định và đo mức nghèo đói, song tiến bộ đạt được
chắc chắn vẫn rất rõ ràng.
Thành tựu cũng đáng kểkhi xem xét những thước đo vềnghèo đói khác, ngoài
tiêu chí mức chi tiêu. Mục tiêu phát triển của Việt Nam, tên của Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ, cho thấy mức tiến triển liên tục của những chỉsốxã hội, từsốlượng
học sinh được đi học đến tỷlệtửvong của trẻsơsinh. Mặc dù ởmột vài vùng và một
sốnhóm dân sốcó thành tựu cao hơn những nhóm khác, Việt Nam vẫn tiếp tục giảm
được mức đói nghèo nhanh hơn những nước khác ởcùng mức độphát triển tương tự.
Trong đầu những năm của thập kỷ90, tỷlệ đói nghèo của Việt Nam cao hơn dựtính,
xét vềmức độphát triển kinh tếcủa nước này. Trong nửa đầu của những năm 90, Việt
Nam đã đuổi kịp các nước “trung bình” ởcùng mức độphát triển và đã vượt xa vào
năm 2002.
“Câu chuyện” đằng sau thành tựu xoá đói giảm nghèo phần nào có thay đổi
qua thời gian. Trước đây, những thành tựu đạt được là nhờviệc phân đất đai nông
nghiệp cho các hộvùng nông thôn, trong bối cảnh cải cách kinh tếtạo ra những động
lực đúng đắn đểtăng sản xuất nông nghiệp. Song, lợi ích của những cải cách này gần
như đã phát huy hết tác dụng. Trong mấy năm gần đây, lực lượng thúc đẩy xoá đói
giảm nghèo lại là việc tạo ra công ăn việc làm trong khu vực tưnhân và việc tăng
cường hội nhập của nền nông nghiệp vào kinh tếthịtrường.
ii
Đại đa sốdân sốtrong độtuổi lao động của Việt Nam trên thực tế đều làm việc
và tỷlệtham gia thịtrường lao động thuộc diện cao nhất thếgiới. Những gì đã thay
đổi không phải ởchỗhoạt động hay không mà là cơcấu ngành nghềcủa lao động.
Trong 4 năm qua, tỷlệngười tham gia lao động trên các trang trại của mình giảm từ
2/3 xuống ít hơn một nửa. Thay vào đó, nhiều người đang tham gia vào các ngành
nghềcó trảcông: 30% số đó đang làm những công việc được trảcông trong năm
2002, so với 19% trước đó 4 năm. Nhờsựthay đổi này, đến năm 2002, khu vực kinh
tếtưnhân đã chiếm khoảng 2,5 triệu người, lớn hơn toàn bộkhu vực kinh tếNhà
nước. Song, còn rất nhiều những nghềnghiệp khác nữa đã được khu vực kinh tếtư
nhân không chính thức tạo ra.
Mức thu nhập ngày càng tăng từnông trại trong vài năm qua cũng rất quan
trọng đối với thành tựu xoá đói giảm nghèo ởvùng nông thôn. Các hộgia đình ởcác
trang trại tại Việt Nam đã bắt đầu chuyển hướng vào sản xuất cho thịtrường hơn là
sản xuất cho tiêu thụtrong gia đình. Hiện nay, họ đang bán 70% sản phẩm nông
nghiệp của mình cho thịtrường, so sánh với 48% cách đây 9 năm. Điều này không hề
ảnh hưởng đến mức chi tiêu để đảm bảo an ninh lương thực hay đủchất dinh dưỡng,
vì cảhai chỉsốnày đều đã tăng lên qua thời gian. Đa dạng hoá ngành nghềcũng giúp
cho nông dân giảm được mức dễbịtổn thương khi gặp chuyện không may.
Sâu xa hơn, xoá đói giảm nghèo ởViệt Nam gắn liền với mức tăng trưởng
kinh tếcao. Những chính sách công có thể đến được với người nghèo thông qua
những hỗtrợcó mục tiêu và họcũng có thểtăng được tài sản của mình, đặc biệt là về
mặt giáo dục và chăm sóc sức khoẻ. Các chương trình mục tiêu và những chính sách
phát triển nguồn nhân lực không thểthực hiện được nếu không có tăng trưởng kinh tế
bền vững. Với quan điểm đó, thành tựu của Việt Nam từkhi có chính sách đổi mới là
tuyệt vời. Ngoại trừmột sốnước đang phục hồi từnội chiến hoặc có xáo động kinh tế
trong thập kỷqua, chỉcó Trung Quốc và Aixơlen là có mức tăng trưởng GDP tính
theo đầu người cao hơn Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_phat_trien_viet_nam_2004.pdf