Báo cáo Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa

Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam, vị trí và đặc điểm của các nguồn lực đang được đánh giá và nhìn nhận lại, trong đó con người được coi là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định thành công của công cuộc phát triển KT - XH. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Có thể thấy rằng, quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là những yêu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá.

Trong nền kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực đã trở thành động lực tăng năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, đây chính là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vì, chỉ có nguồn nhân lực mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ, tài nguyên thiên nhiên) trở thành động lực trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế phát triển theo chiều sâu dựa chủ yếu vào tri thức, chúng ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã cho thấy rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: “áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Trong đó, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong một nền kinh tế toàn cầu, đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt, ưu thế cạnh tranh sẽ nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và xã hội ổn định. Một số nước ở khu vực châu Á đang điều chỉnh chiến lược cạnh tranh trong tương lai - khi phát triển nền kinh tế tri thức, đã xác định phát triển nguồn nhân lực là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.

Tầm quan trọng của nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà điều này được khẳng định trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng ta đã khẳng định: “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, đồng thời Nhà nước đã có nhiều chính sách phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực, đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức cao và ổn định. Trong quá trình phát triển, tạo ra lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực sẽ là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh và động lực to lớn để phát triển đất nước, đảm bảo đi tắt đón đầu, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ vai trò quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên. Nguồn nhân lực nếu được khai thác hiệu quả trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là giải pháp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KT - XH trong tương lai.

Công cuộc đổi mới ở nước ta đã làm thay đổi cơ bản KT - XH, các địa phương thuộc miền Đông Nam bộ cũng nằm trong xu thế vận động phát triển đó. Miền Đông Nam bộ gồm 6 tỉnh, thành: Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, đây là vùng kinh tế phát triển năng động nhất của các tỉnh phía Nam và cả nước. Vùng ĐNB nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - đầu tàu trong phát triển của cả nước; là vùng duy nhất hội đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập; đặc biệt phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và sản phẩm hóa dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, phát triển các ngành kinh tế hiện đại.

Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu, nhiều cơ hội mở ra thì song song đó cũng phải đối mặt với thách thức, nguy cơ. Trong đó, nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao sức mạnh cạnh tranh cũng là thách thức lớn. Phát triển Vùng ĐNB đến 10, 20 năm nữa chắc chắn sẽ có thay đổi lớn như dân số phát triển, hạ tầng kinh tế kỹ thuật mở rộng, hình thành và phát triển các cụm kinh tế kỹ thuật và khoa học công nghệ tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do đó, Vùng ĐNB rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu này.

Mặt khác, hiện nay nguồn nhân lực của Vùng ĐNB chưa được chuẩn bị tương xứng với yêu cầu CNH, HĐH. Ngành giáo dục chưa chủ động gắn kết quy hoạch phát triển giữa các địa phương trong vùng; chưa dự báo được yêu cầu nhân lực cho từng ngành kinh tế trong chiến lược phát triển KT - XH của cả Vùng trong dài hạn.

Tình trạng này cần phải khắc phục nhanh, vì nếu không nó sẽ không phát huy được tiềm năng to lớn và triển vọng tăng trưởng cao từ chất lượng nguồn nhân lực của Vùng. Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu KT - XH của Vùng ĐNB trong giai đoạn tới. Các quyết sách cho những vấn đề còn tồn tại cần đặt trong một chỉnh thể chiến lược dài hơi hơn là những giải pháp rời rạc, tình huống. Chính vì thế, nhóm nghiên cứu lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” để nghiên cứu lúc này có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn.

 

doc164 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Báo cáo Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Phần mở đầu 1 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ Bảng 2.1: Dân số chia theo vùng 46 Bảng 2.2: Mật độ dân số Vùng ĐNB 47 Bảng 2.3: Cơ cấu kinh tế Vùng ĐNB 51 Bảng 2.4: Dân số từ 15 tuổi trở lên làm công việc chiếm nhiều thời gian nhất trong 12 tháng qua chia theo ngành Vùng ĐNB 52 Bảng 2.5: Tỷ lệ dân số thành thị phân theo vùng 55 Bảng 2.6: Cơ cấu lao động của TP.HCM 57 Bảng 2.7: Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế 63 Bảng 2.9: Biến số và giải thích (mặt cầu giáo dục) 70 Bảng 2.10: Mô tả biến số của mô hình giáo dục 70 Bảng 2.11: Hệ số tương quan giữa giáo dục và bất bình đẳng đất đai 72 Bảng 2.12: Hệ số tương quan giữa giáo dục và bất bình đẳng đất đai 73 Bảng 2.13 Hệ số tương quan giữa giáo dục và bất bình đẳng đất đai 73 Bảng 2.14: Giáo dục và nghèo cả nước 74 Bảng 2.15: Giáo dục và nghèo Đông Nam Bộ 75 Bảng 2.16: Thống kê mô tả 75 Bảng 2.18: Tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật theo khu vực (%) 92 Bảng 2.19: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo ngành chính của nhóm từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong 12 tháng qua (%), 2008 94 Bảng 2.20: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo nghề chính của nhóm từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong 12 tháng qua (%), 2008 94 Bảng 2.21: Trình hộ học vấn và nghèo đói, 2008 95 Bảng 2.22: Trình độ học vấn cao nhất của thành viên năm 2008 96 Bảng 2.23: Quy mô hộ trung bình năm 2008 97 Bảng 2.24: Số con dưới 15 tuổi trung bình của một hộ gia đình, 2008 97 Bảng 2.25: Nhà cửa của hộ theo vùng, 2008 98 Bảng 2.26 Nhà cửa của hộ theo thành thị - nông thôn, dân tộc, 2008 98 Bảng 2.27: Tài sản của hộ theo vùng năm 2008 99 Bảng 2.28: Chỉ số phát triển con người HDI Vùng ĐNB 100 Bảng 3.1: Cơ cấu sử dụng lao động và năng suất lao động vùng ĐNB 111 Đồ thị 3.1: Dự báo tỷ trọng các ngành nghề có nhu cầu thu hút lao động trong các doanh nghiệp tại Vùng ĐNB (Đơn vị tính: %) 118 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNKT: Công nhân kỹ thuật DN: Doanh nghiệp DNNN: Doanh nghiệp nhà nước FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài GTGT: Giá trị gia tăng GTSXCN: Giá trị sản xuất công nghiệp KCX, KCN: Khu chế xuất, Khu công nghiệp KHKT: Khoa học - kỹ thuật KT - XH kinh tế - xã hội NSLĐ: năng suất lao động THCN: Trung học chuyên nghiệp TNCs: Các công ty xuyên quốc gia TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh VKTTĐPN: Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam CBYT Cán bộ y tế NVYT Nhân viên y tế TYT Trạm y tế XĐGN Xóa đói giảm nghèo CSBVSK Cơ sở bảo vệ sức khỏe CSSK Chăm sóc sức khỏe DVYT Dịch vụ y tế MLYTCS Mạng lưới y tế cơ sở CSYTCB Chăm sóc sức khỏe cơ bản CSSKSS Chăm sóc sức khỏe sinh sản CSSKBĐ Chăm sóc sức khỏe ban đầu KCB Khám chữa bệnh TTYT Trung tâm y tế PB Phòng bệnh PKĐK Phòng khám đa khoa BVSKBMTE Bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em DSKHHGĐ Dân số kế hoạch hóa gia đình PHẦN MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở Việt Nam, vị trí và đặc điểm của các nguồn lực đang được đánh giá và nhìn nhận lại, trong đó con người được coi là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định thành công của công cuộc phát triển KT - XH. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Có thể thấy rằng, quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam được thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội theo hướng phát triển bền vững trong đó nhân tố con người là trung tâm. Trong tiến trình đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là những yêu cầu hết sức cấp bách, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực phải có những thay đổi mang tính đột phá. Trong nền kinh tế hiện đại, nguồn nhân lực đã trở thành động lực tăng năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế, đây chính là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Bởi vì, chỉ có nguồn nhân lực mới có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác (vốn, khoa học - công nghệ, tài nguyên thiên nhiên) trở thành động lực trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chiến lược quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế phát triển theo chiều sâu dựa chủ yếu vào tri thức, chúng ta càng nhận thức rõ hơn về vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các lý thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây đã cho thấy rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: “áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”. Trong đó, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong một nền kinh tế toàn cầu, đầy biến động và cạnh tranh quyết liệt, ưu thế cạnh tranh sẽ nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và xã hội ổn định. Một số nước ở khu vực châu Á đang điều chỉnh chiến lược cạnh tranh trong tương lai - khi phát triển nền kinh tế tri thức, đã xác định phát triển nguồn nhân lực là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, mà điều này được khẳng định trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng ta đã khẳng định: “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, đồng thời Nhà nước đã có nhiều chính sách phát huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực, đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở mức cao và ổn định. Trong quá trình phát triển, tạo ra lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực sẽ là nguồn nội lực, là yếu tố nội sinh và động lực to lớn để phát triển đất nước, đảm bảo đi tắt đón đầu, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ vai trò quyết định sức mạnh của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên. Nguồn nhân lực nếu được khai thác hiệu quả trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ là giải pháp đột phá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển KT - XH trong tương lai. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã làm thay đổi cơ bản KT - XH, các địa phương thuộc miền Đông Nam bộ cũng nằm trong xu thế vận động phát triển đó. Miền Đông Nam bộ gồm 6 tỉnh, thành: Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh, đây là vùng kinh tế phát triển năng động nhất của các tỉnh phía Nam và cả nước. Vùng ĐNB nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - đầu tàu trong phát triển của cả nước; là vùng duy nhất hội đủ các điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập; đặc biệt phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, tin học, công nghiệp dầu khí và sản phẩm hóa dầu; phát triển dịch vụ cao cấp, dịch vụ du lịch, dịch vụ viễn thông, tài chính, ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao,… phát triển các ngành kinh tế hiện đại. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu, nhiều cơ hội mở ra thì song song đó cũng phải đối mặt với thách thức, nguy cơ. Trong đó, nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao sức mạnh cạnh tranh cũng là thách thức lớn. Phát triển Vùng ĐNB đến 10, 20 năm nữa chắc chắn sẽ có thay đổi lớn như dân số phát triển, hạ tầng kinh tế kỹ thuật mở rộng, hình thành và phát triển các cụm kinh tế kỹ thuật và khoa học công nghệ… tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Do đó, Vùng ĐNB rất cần nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu này. Mặt khác, hiện nay nguồn nhân lực của Vùng ĐNB chưa được chuẩn bị tương xứng với yêu cầu CNH, HĐH. Ngành giáo dục chưa chủ động gắn kết quy hoạch phát triển giữa các địa phương trong vùng; chưa dự báo được yêu cầu nhân lực cho từng ngành kinh tế trong chiến lược phát triển KT - XH của cả Vùng trong dài hạn. Tình trạng này cần phải khắc phục nhanh, vì nếu không nó sẽ không phát huy được tiềm năng to lớn và triển vọng tăng trưởng cao từ chất lượng nguồn nhân lực của Vùng. Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu KT - XH của Vùng ĐNB trong giai đoạn tới. Các quyết sách cho những vấn đề còn tồn tại cần đặt trong một chỉnh thể chiến lược dài hơi hơn là những giải pháp rời rạc, tình huống. Chính vì thế, nhóm nghiên cứu lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh vùng Đông Nam bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” để nghiên cứu lúc này có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH và hội nhập của nước ta, đặc biệt là đòi hỏi của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Các công trình nghiên cứu trong nước tập trung theo các vấn đề sau đây: 3.1. Quan niệm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. - “Con người và phát triển con người”, Hồ Sĩ Quý, NXB Giáo dục, Hà Nội 2007. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác, cuốn sách nghiên cứu khả kỹ về khoa học con người, làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nguồn nhân lực. - “Quan điểm của Đảng ta về: Bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt”, Vũ Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 12 (187) 12-2006. Bài viết tập trung luận giải sự đúng đắn quan điểm của Đảng ta về doanh nhân, là lực lượng đảm đương vai trò tiên phong trong phát triển kinh tế, tạo động lực và để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 3.2. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập. - “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH dựa trên tri thức của nước ta hiện nay”, Đặng Hữu, Tạp chí Cộng sản, số 4/2005. Công trình nghiên cứu khá kỹ về yêu cầu của CNH, HĐH và sự phát triển kinh tế tri thức, do đó cần phải có sự đổi mới trong giáo dục. Tác giả nêu ra 3 nhiệm vụ cơ bản của nền giáo dục nước ta là: Nâng cao mặt bằng dân trí; Đào nguồn nhân lực chất lượng cao thích nghi quá trình đổi mới và phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu rút ngắn quá trình CNH, HĐH dựa vào tri thức; Phải chăm lo bồi dưỡng và phát triển đội ngũ nhân tài. - “Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH - kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam”, Vũ Bá Thể, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội 2005. Cuốn sách phân tích vấn đề trên trong 3 chương. Chương 1, hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, vai trò,…. Chương 2, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta: ưu điểm, hạn chế, xu hướng phát triển,…. Chương 3, xuất phát từ quan điểm của Đảng và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp phát huy nguồn nhân lực ở nước ta. Các công trình nghiên cứu trên phân tích khá sâu những đặc điểm, yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở tính khái quát, lý luận. 3.3. Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. - “Phát triển nhân tài chấn hưng đất nước”, Nguyễn Đắc Hưng, NXB CTQG, Hà Nội 2007. Cuốn sách tập trung giới thiệu những phẩm chất cần có của nhân tài, kinh nghiệm đào tạo, sử dụng nhân tài của ông cha ta và một số quốc gia trên thế giới, những nội dung cơ bản về phát triển nhân tài. - “Mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực”, Nguyễn Hữu Lam, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Tác giả phân tích các lý thuyết về mô hình năng lực trong giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có giá trị tham khảo phục vụ cho nghiên cứu đề tài. - “Một số vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam”, Vũ Thành Hưng, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (số 90) 12/2004. Nội dung công trình phân tích những thành tựu và hạn chế vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của nước ta, từ đó đề xuất một số kiến nghị nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đào tạo. Vấn đề giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được các công trình trên đi sâu phân tích. Tuy nhiên, hầu hết chưa đưa ra mô hình giáo dục - đào tạo phù hợp với điều kiện hội nhập của Việt Nam, đáp ứng sự phát triển các ngành kinh tế hiện đại. 3.4. Phát triển nguồn nhân lực trong các loại hình doanh nghiệp. - “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Trần Kim Dung, Tạp chí Phát triển kinh tế số 3/2004. Công trình phân tích và chỉ ra những bất cập trong hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua số liệu điều tra 120 cá nhân về hoạt động đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và 558 cá nhân về quan điểm của nhân viên trong các doanh nghiệp. - “Phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước”, Lê Thị Ngân, Nguyễn Huy Oánh, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 4/2004. Công trình nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân, từ đó xác định những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp này. - “Thực trạng lao động trong khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”, Lê Thị Ngân, Tạp chí Lý luận chính trị số 12/2003. Tác giả phân tích những đặc điểm của lao động trong khu vực FDI ở Việt Nam, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng lao động góp phần thu hút FDI ở Việt Nam. Các công trình nêu trên đề cập đến những nội dung phát triển nguồn nhân lực ở cấp độ doanh nghiệp, chưa nghiên cứu đến sự phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hội cho một vùng kinh tế. 3.5. Vai trò của Nhà nước, thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực - “Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp”. Nguyễn Thị Thơm, NXB CTQG, Hà Nội 2006. Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về thị trường lao động, kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Nội dung cuốn sách cung cấp cho người đọc bức tranh tổng thể về thị trường lao động nước ta hiện nay. - “Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội”, Bùi Văn Nhơn, NXB Tư Pháp, Hà Nội 2006. Cuốn sách cung cấp cơ sở lý thuyết những nội dung cơ bản trong quản lý phát triển nguồn nhân lực như: phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực , thị trường lao động, các chính sách,… - “Thị trường lao động; Vấn đề lý thuyết và thực trạng hình thành, phát triển ở Việt Nam”, Phạm Đức Chính, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 308 (1/2004). Tác giả phân tích khả kỹ những nội dung liên quan đến thị trường lao động như: Khái niệm thị trường lao động; Bản chất của thị trường lao động; Những đặc trưng hoạt động của thị trường lao động; Ý nghĩa của thị trường lao động và cuối cùng tác giả phân tích thực trạng thị trường lao động ở Việt Nam, rút ra một số đặc điểm chủ yếu của thị trường lao động. Các công trình đề cập tương đối toàn diện vai trò của Nhà nước trong việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, các công trình mới chỉ dừng lại những vấn đề chung và chưa đề cập nhiều đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập. 3.6. Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực - “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam”, Nguyễn Hữu Dũng, Nxb Lao động - Xã hội, 2003. Cuốn sách trình bày hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta đến năm 2020. - “Hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta và giải pháp nâng cao”, Nguyễn Thị Thơm, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2003. Công trình đánh giá hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta trên các nội dung: mức độ toàn dụng lao động thấp, việc bố trí và sử dụng lao động còn bất hợp lý, năng suất lao động hay hiệu quả hoạt động thấp, từ đó đưa ra những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở nước ta. Nhìn chung các công trình trên chủ yếu tập trung vào nội dung định tính để đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, chỉ đề cập đến một số chỉ số cơ bản và đặt ra nhiều nội dung cần tiếp tục nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Để đạt mục tiêu nghiên cứu đặt ra, Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích thống kê, phân tích định lượng, phương pháp chuyên gia và phương pháp phỏng vấn sâu. Phân tích thống kê: Sử dụng các số liệu thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp định lượng để tìm ra các kết luận khoa học. Phương pháp chuyên gia: Tổ chức hội thảo trong quá trình thực hiện nhằm tìm kiếm sự thống nhất trong các phân tích, đánh giá cũng như đề xuất các giải pháp, kiến nghị. Chuyên gia là các cán bộ chỉ đạo thực tiễn của tỉnh và một số nhà nghiên cứu. Mục tiêu của đề tài Mục tiêu chung của đề tài là xây dựng những luận cứ khoa học và căn cứ thực tiễn về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền Đông Nam bộ trong thời kỳ hội nhập (về khái niệm, nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực, các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, xu hướng phát triển của nguồn nhân lực), những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất hệ thống các quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh Vùng ĐNB trong thời kỳ hội nhập. Nhiệm vụ cụ thể của đề tài: Hệ thống lý luận về nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn miền Đông Nam bộ, xác định những hạn chế và nguyên nhân. Xây dựng những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở các tỉnh miền Đông Nam bộ trong thời kỳ hội nhập. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu Đề tài nghiên cứu vấn đề chất lượng nguồn nhân lực của Vùng ĐNB từ năm 2000 trở lại đây. Về mặt lý luận, chất lượng nguồn nhân lực là tổng hòa của ba yếu tố: thể lực, trí lực và phẩm chất của người lao động. Đề tài nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực trên 3 nội dung cơ bản: - Giáo dục - đào tạo và dạy nghề; - Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng; - Vấn đề nghèo đói và thu nhập. Đề tài được trình bày trong ba chương: Chương 1: Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và nâng cao nguồn nhân lực trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập Chương 2: Phân tích hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực Vùng ĐNB trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực miền Đông Nam bộ trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực 1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực 1.1.1.1. Quan điểm Mácxit về nguồn lực con người Những thành tựu trong nhận thức về con người mà loài người đạt được ở thời đại ngày nay là kết quả của sự tích luỹ những giá trị tinh hoa của nhân loại qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, những cống hiến của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin có tính chất quyết định, tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Ngược dòng lịch sử nghiên cứu về con người có thể nhận thấy: thời cổ đại, do hạn chế về thế giới quan, về điều kiện lịch sử, trình độ sản xuất còn thấp kém, khoa học chưa phát triển, nên quan niệm của các nhà triết học còn phiến diện, mang nặng tính chất thần bí, siêu hình. Sang thời phong kiến, triết học là ²nô tỳ" của thần học, các quan niệm về con người mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Con người được hiểu như là sự sáng tạo của Thượng đế, không có khả năng làm chủ cuộc sống của mình. Thời kỳ Phục Hưng và Khai Sáng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và dần dần thắng thế ở châu Âu đã mở ra một thời kỳ mới trong việc khám phá bản chất con người. Quan niệm về con người thường gắn với vai trò của nó trong xã hội, hướng tới giải phóng con người khỏi thần học, khỏi các điều kiện nô dịch áp bức trong xã hội. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật siêu hình, các quan niệm về con người chỉ phản ánh những khía cạnh hạn hẹp, thiếu tính hệ thống. Như vậy, nghiên cứu những quan niệm về con người trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét sau: - Các nhà triết học trước Mác mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và giải thích con người từ nhiều phương diện với nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng cuối cùng vẫn chưa nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội, chưa đề ra được những phương hướng, biện pháp nhằm giải phóng hoàn toàn con người. - Phần lớn các học thuyết triết học trước Mác, khi quan niệm về con người thường chỉ xuất phát từ một phía: bản thể tinh thần (Chủ nghĩa duy tâm), hoặc bản thể vật chất (chủ nghĩa duy vật). Họ không thấy được mối quan hệ biện chứng giữa những yếu tố tự nhiên, sinh học và những yếu tố xã hội của con người. - Khi xem xét con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh, các nhà triết học trước Mác không thấy tính năng động, sáng tạo của con người, coi con người như một thực thể thụ động trước tác động của hoàn cảnh. Triết học mácxit trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những di sản lý luận trước đó và những thành tựu của khoa học tự nhiên, xuất phát từ con người hiện thực và hoạt động thực tiễn để xem xét bản chất con người. Trong quan niệm của triết học Mácxít con người là một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Luận đề nổi tiếng về con người được C. Mác viết trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc: ²Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" [26, tr.11] . Với quan niệm đó, C. Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Ở đây, cá nhân được hiểu với tư cách là những cá nhân sống, là người sáng tạo các quan hệ xã hội; sự phong phú của mỗi cá nhân tuỳ thuộc vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Hơn thế, mỗi cá thể là sự tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có, mà còn là lịch sử của các quan hệ đó. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội, biến đổi chính bản thân mình và đã làm nên lịch sử của xã hội loài người. Vạch ra vai trò của mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bản chất của con người, quan hệ giữa cá nhân và xã hội là một cống hiến quan trọng của triết học mácxit. Kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tri thức triết học phương Đông và vốn văn hoá dân tộc, luôn chú ý đến con người. Theo Hồ Chí Minh ²chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" [21, tr.644]. Với ý nghĩa đó, khái niệm con người mang trong nó bản chất xã hội, là con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng trong đó con người hoạt động và sinh sống. Hồ Chí Minh thường đặt mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời. Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm: sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần... Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng. Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn sáng tạo có ý thức, là chủ thể của lịch sử. 1.1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là sức của con người bao gồm: sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản thân người lao động hướng tới một mục đích xác định (tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbaocaoketquanghiencuu_NNL-Full.doc
Tài liệu liên quan