Dòng lưu chuyển tiền tệ đặc biệt quan trọng đối với một doanh
nghiệp. Nó cho phép doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động của
mình, thay thế các tài sản cần thiết, tận dụng các cơ hội của thị
trường và chi trả cổ tức cho các cổ đông. Một số chuyên gia còn
cho rằng “dòng tiền là vua” (“cash flow is king”).
Bảng lưu chuyển tiền tệ cho biết khả năng tạo tiền, tình hình quản
lí các tài sản và trách nhiệm pháp lí ngoài vốn hiện thời, chi tiết
các khoản đầu tư vào tài sản sản suất và các khoản đầu tư tài
chính của doanh nghiệp.
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1001 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Báo cáo Lưu chuyển tiền tệ SCF (Statement of Cash Flows), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ SCF
(Statement of Cash Flows)
Dòng lưu chuyển tiền tệ đặc biệt quan trọng đối với một doanh
nghiệp. Nó cho phép doanh nghiệp có thể mở rộng hoạt động của
mình, thay thế các tài sản cần thiết, tận dụng các cơ hội của thị
trường và chi trả cổ tức cho các cổ đông. Một số chuyên gia còn
cho rằng “dòng tiền là vua” (“cash flow is king”).
Bảng lưu chuyển tiền tệ cho biết khả năng tạo tiền, tình hình quản
lí các tài sản và trách nhiệm pháp lí ngoài vốn hiện thời, chi tiết
các khoản đầu tư vào tài sản sản suất và các khoản đầu tư tài
chính của doanh nghiệp. Nó cho phép cả các nhà quản lí cũng
như các nhà nghiên cứu trả lời được những vấn đề quan trọng
liên quan đến tiền như:
• Liệu doanh nghiệp có đủ tiền để chi trả cho các khoản nợ ngắn
hạn cho nhà cung cấp và những chủ nợ khác mà không phải đi
vay không?
• Doanh nghiệp có thể quản lí được các tài khoản phải thu, bảng
kiểm kê, ...
• Doanh nghiệp có những khoản đầu tư hiệu quả cao không?
• Doanh nghiệp có thể tự tạo ra được dòng tiền tệ để tài trợ cho
các khoản đầu tư cần thiết mà không phụ thuộc vào vốn từ bên
ngoài không?
• Doanh nghiệp có đang thay đổi cơ cấu nợ không?
Bảng lưu chuyển tiền tệ (SCF) cung cấp thông tin liên quan ba
hoạt động chính tạo ra và sử dụng tiền là: hoạt động sản xuất,
kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư.
Bảng lưu chuyển tiền tệ có liên quan mật thiết với bảng cân đối
kế toán (CĐKT) và báo cáo kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó cần các dữ liệu từ:
- Bảng CĐKT dùng để thu thập dòng tiền từ tất cả các hoạt động.
Để quá trình này được dễ dàng nên tính toán thay đổi từ thời
điểm đầu kì đến thời điểm cuối kì của mỗi khoản.
- Một báo cáo kết quả hoạt động SXKD sử dụng ban đầu để thu
thập các dòng tiền từ hoạt động SXKD.
- Các chi tiết phụ khác liên quan đến một số tài khoản phản ánh
vài loại giao dịch và vấn đề khác nhau. Việc nghiên cứu các tài
khoản riêng biệt là cần thiết bởi thường tổng số thay đổi của cân
bằng TK trong năm không chỉ ra được bản chất thực của dòng
tiền.
I. Phân chia các dòng tiền trong bảng lưu chuyển tiền tệ
Về cơ bản, bảng lưu chuyển tiền tệ giải thích sự vận động tiền tệ
từ cân bằng tiền đầu kì đến mức cân bằng cuối kì (tiền tệ bao
gồm tiền và các khoản tương đương tiền như đầu tư ngắn hạn,
các khoản đầu tư có độ thanh khoản cao, thông thường là các
khoản đầu tư đáo hạn dưới ba tháng.
Các dòng tiền trong bảng lưu chuyển tiền tệ được chia thành 3
loại:
1. Dòng tiền từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
Là các dòng tiền ra và vào trực tiếp liên quan đến thu nhập từ
hoạt động sản xuất kinh doanh được ghi nhận trên bảng thu
nhập. Có hai phương pháp trình bày hoạt động sản xuất được sử
dụng là:
1.1. Phương pháp trực tiếp
Báo cáo các dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh được
liệt kê theo từng khoản thu và chi trả:
Dòng tiền vào:
- tiền thu bán hàng
- tiền thu từ các khoản nợ phải thu
- tiền thu từ các khoản thu khác
Dòng tiền ra:
- tiền đã trả cho người bán
- tiền đã trả cho công nhân viên
- tiền đã nộp thuế và các khoản kác cho Nhà nước
- tiền đã trả cho các khoản nợ phải trả khác
- tiền đã trả cho các khoản khác
Chênh lệch giữa dòng tiên vào và dòng tiền ra được gọi là lưu
chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Phương pháp gián tiếp
Điều chỉnh thu nhập ròng bằng việc giảm thiểu các khoản mục phi
tiền tệ để tính toán dòng tiền vào (ra) ròng từ hoạt động sản xuất
kinh doanh. Cần chú ý giữa thu nhập và dòng tiền có sự khác
nhau, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh được ghi nhận tích
luỹ, cả doanh thu và chi phí đều được ghi nhận khi có nghiệp vụ
phát sinh, không quan tâm đến thời điểm phát sinh dòng tiền.
Hiện nay, các doanh nghiệp hầu hết đều sử dụng phương pháp
gían tiếp. Tuy nhiên cần ghi nhớ rằng, hai phương pháp trên là
những cách chuyển đổi đơn giản cho kết quả giống nhau.
2. Dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Là các dòng tiền vào ra liên quan đến việc mua và thanh lí các tài
sản sản xuất kinh doanh do công ty sử dụng hoặc đầu tư vào các
chứng khoán của công ty khác.
Dòng tiền ra phản ánh các khoản đầu tư tiền mặt toàn bộ để có
được các tài sản này. dòng tiền vào chỉ được ghi nhận khi nhận
được tiền từ việc thanh lí các tài sản đầu tư trước. Các dòng tiền
từ hoạt động đầu tư gồm:
Dòng tiền vào
Tiền thu từ:
- các khoản đầu tư vào đơn vị khác
- lãi các khoản đầu tư vào đơn vị khác
- bán tài sản cố định
Dòng tiền ra
Tiền trả cho:
- đầu tư vào các đơn vị khác
- mua tài sản cố định
Chênh lệch giữa dòng tiền ra và vào gọi là lưu chuyển thuần từ
hoạt động đầu tư.
3. Dòng tiền từ hoạt động tài chính
Bao gồm dòng tiền ra và vào liên quan đến các nghiệp vụ tiền tệ
với các chủ thể ngoài doanh nghiệp ( từ các chủ sở hữu và chủ
nợ ) tài trợ cho doanh nghiệp và các hoạt động của doanh
nghiệp. Dòng tiền vào ghi nhận các hoạt động tài chính nhận tiền
từ chủ sở hữu vốn và chủ nợ. Dòng tiền ra ngược lại. Các hoạt
động đó gồm:
Dòng tiền vào
Tiền thu:
- do đi vay
- do các chủ sở hữu góp vốn
- từ lãi tiền gửi
Dòng tiền ra
Tiền trả:
- tiền đã trả nợ vay
- tiền đã hoàn vốn cho các chủ sở hữu
- tiền lãi đã trả cho các nhà đầu tư vao doanh nghiệp
Số chênh lệch dòng tiền ra và vào gọi là: lưu chuyển thuần từ
hoạt động tài chính.
II. Mối liên hệ giữa dòng tiền và các hoạt động sản xuất kinh
doanh
Phần hoạt động tài chính của bảng lưu chuyển tiền tệ tập trung
vào khả năng tạo tiền qua hoạt động sản xuất kinh doanh và việc
quản lí các tài sản và trách nhiệm pháp lí ngoài vốn hiện tại của
doanh nghiệp (hay vốn hoạt động). Nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng đây là phần quan trọng nhất của bảng bởi vì xét trong thời
gian dài, hoạt động sản xuất kinh doanh là nguồn duy nhất tạo ra
tiền. Các nhà đầu tư sẽ không đầu tư vào một công ty nếu họ
thấy nó không có khả năng chi trả cổ tức cho họ hoặc nó không
thể tái đầu tư từ số tiền thu được từ hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tương tự, các chủ nợ cũng không cho công ty đó vay nợ.
Để đánh giá mối liên hệ giữa dòng tiền và các hoạt động sản xuất
kinh doanh, ta lần lượt xem xét các mối liên hệ sau:
1. Các tài khoản phải thu và lưu chuyển tiền tệ
Sự thay đổi của các TK phải thu có thể là yếu tố quyết định đến
dòng lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh của
cty. Theo phương pháp gián tiếp, doanh thu bán hàng tích luỹ
thường gồm các khoản doanh thu không phát sinh tiền, nó tạo
nên sự thay đổi trong cân bằng của các TK phải thu. Khi doanh
thu được ghi nhận, TK phải thu tăng và khi tiền thu về, TK phải
thu giảm. Chúng ta có thể đưa ra nguyên tắc sau:
Khi có một sự giảm trong TK phải thu, lượng tiền thu từ khách
hàng luôn lớn hơn doanh thu tích luỹ, do vậy, số giảm phải được
tính vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi có một sự tăng của TK phải thu, lượng tiền thu từ khách hàng
luôn nhỏ hơn doanh thu tích luỹ, do vậy, số tăng phải ghi giảm trừ
vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ví dụ: bảng cân đối kế toán: TK phải thu có SDDK: 70 triệu,
SDCK: 105tr -> số tăng trong kì: 35tr, lượng tiền thu được ít hơn
doanh thu. Do đó để phản ánh lượng tiền vào ít hơn, lượng tăng
phải được trừ vào lợi nhuận kinh doanh để chuyển lợi nhuận
sang dòng tiền từ hoạt động kinh doanh.
2. Hàng tồn kho và lưu chuyển tiền tệ
Sự thay đổi của hàng tồn kho cũng là một yếu tố chính ảnh
hưởng đến lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh chi
phí mua hàng trong thời kì, trong khi đó SFC phản ánh số tiền trả
cho người cung cấp trong cùng kì. Chi phí này có thể lớn hơn
hoặc nhỏ hơn lượng tiền trả. Do hầu hết hàng hoá mua theo
phương pháp mua chịu, để cân bằng chi phí mua hàng với số
tiền trả cho nhà cung cấp đòi hỏi việc xem xét những thay đôỉ
trong cả TK hàng hoá và TK phải trả. Cách đơn giản nhất để ghi
nhận ảnh hưởng của những thay đổi hàng tồn kho là khi mua
hàng (lượng hàng tồn kho tăng cuối cùng dẫn đến giảm lượng
tiền và khi bán hàng dẫn đến giảm hàng tồn kho và tăng lượng
tiền. Tương tự, khi vay của nhà cung cấp dẫn đến tăng lượng tiền
phải trả, tăng tiền và khi trả, giảm khoản phải trả, giảm tiền. Một
sự tăng hoặc khoản phải trả phải được ghi giảm hoặc ghi thêm
vào dòng lưu chuyển tiền tệ.
3. Chi phí trả trước và dòng lưu chuyển tiền tệ
Theo phương pháp kế toán ghi tích luỹ, tổng số chi phí phải trả có
thể khác với dòng tiền liên quan đến chi phí trả trước. Một số chi
phí được thanh toán trước khi nó được ghi nhận (VD: tiền thuê
trả trước). Khi thực hiện thanh toán, cân bằng TK chi phí trả
trước tăng, khi chi phí được ghi nhận, chi phí trả trước giảm.
Khi có một sự giảm trong TK chi phí trả trước hoặc TK tài sản sản
xuất kinh doanh, số tiền chi phí trả trước luôn nhỏ hơn chi phí trả
đúng hạn, do đó, khoản giảm phải được ghi thêm vào dòng tiền
từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nó phải ghi trừ.
Chú ý: một sự tăng trong TK hàng hoá không dự tính trước có thể
là một nguyên nhân khác làm kết quả kinh doanh vượt quá tốc độ
dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự gia tăng hàng
hoá có thể là một dấu hiệu cho thấy lượng tăng doanh thu theo
kế hoạch không được thực hiện.
4. Mối liên hệ giữa dòng tiền và các tài sản hiện tại khác và
các tài sản khác
Các tài sản hiện tại khác luôn gồm những khoản hoạt động như
lãi suất phải thu. Những tài sản khác (không phải tài sản hiện tại)
có thể hoặc không thể gồm những khoản hoạt động như những
khoản phải thu dài hạn của khách hàng.
Tương tự với các khoản phải thu, khi các tài khoản này phản ánh
một sự tăng ròng, số tiền thu được luôn nhỏ hơn doanh thu tích
luỹ, khoản giảm được ghi trừ vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất
kinh doanh. Ngược lại, khoản thiếu hụt phải ghi thêm.
Với những tài sản gồm những tài sản không hoạt động như trang
thiết bị thanh lí, sự thay đổi của nó không được coi thuộc khoản
dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà nó ảnh hưởng
đến dòng tiền từ hoạt động đầu tư.
5. Mối quan hệ giữa dòng tiền và các tài khoản phải trả
Như đã nói trong phần trước, hầu hết hàng hoá đều được mua
chịu. Do đó, khi việc mua hàng được ghi nhận, khoản phải trả
tăng và khi trả tiền, khoản phải trả giảm. Khoản phải trả bằng
lượng tiền công ty vay từ nhà cung cấp qua việc mua hàng.
Khi có sự tăng trong tài khoản phải trả, số tiền trả cho nhà cung
cấp luôn nhỏ hơn giá trị số hàng mua trên tài khoản; do đó khoản
tăng phải được cộng vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, và ngược lại.
6. Mối liên hệ giữa chi phí tích luỹ và dòng tiền
Đối với một số chi phí được trả sau khi chúng được ghi nhận
(như chi phí tiền lương tích luỹ), khi chi phí được ghi nhận, cân
bằng trong chi phí trách nhiệm pháp lý tích luỹ tăng, khi thanh
toán, các chi phí này giảm.
Khi có sự tăng ròng trong khoản chi phí phải trả trong kì, số tiền
trả cho chi phí luôn nhỏ hơn chi phí được ghi nhận; do đó, khoản
tăng phải được ghi thêm vào dòng tiền từ hoạt động sản xuất
kinh doanh. Ngược lại, khoản giảm được ghi trừ.
So sánh thu nhập ròng với dòng tiền từ hoạt động sản xuất kinh
doanh
Để đánh giá sự phù hợp giữa thu nhập ròng và dòng tiền từ hoạt
động sản xuất kinh doanh
Chất lượng tỉ lệ thu nhập = (Dòng tiền từ hoạt động SXKD / Thu
nhập ròng)
Chỉ số này cho biết tỉ lệ thu nhập phát sinh từ tiền sau đó được
sử dụng cho các hoạt động đầu tư mới hoặc trả nợ tài chính. Khi
tỉ lệ này khác 1, cần phải tìm ra những nguồn gây ra sự khác
nhau đó, liệu tỉ lệ này có thay đổi theo thời gian và nguyên nhân
của sự thay đổi, những sự biến động của các khoản phải thu,
hàng hoá và các khoản phải trả là bình thường không và có lời
giải thích hợp lí cho những thay đổi này không.
a. Lãi hoặc lỗ từ việc bán tài sản, đất đai nhà xưởng và thiết bị:
tổng số tiền thu được từ việc bán tài sản, nhà xưởng, đất đai,
thiết bị nằm trong phần dòng tiền từ hoạt động đầu tư. Do lãi
hoặc lỗ nằm trong thu nhập ròng để tránh tính toán ảnh hưởng
của phần lãi lỗ này hai lần, cần phải loại bỏ khỏi phần dòng tiền
từ hoạt động SXKD bằng việc trừ lãi hoặc cộng thêm lỗ.
b. Thuế thu nhập thu sau: một sự tăng trách nhiệm pháp lý thuế
đi kèm với một chi phí trong thời kì hiện tại. Bởi vì một khoản thuế
tăng sẽ không dẫn đếnmột dòng tiền ra vào thời kì hiện tại, nó
được cộng vào phần lãi lỗ trên bảng lưu chuyển tiền tệ. Các
khoản thuế sẽ được cộng dồn vào và trả vào một thời điểm trong
tương lai, tạo nên một dòng tiền ra. Khi đó số trách nhiệm pháp lí
ngoài vốn giảm phải được trừ vào lãi lỗ trên bảng lưu chuyển tiền
tệ .
c. Thu nhập về vốn và những khoản lỗ đầu tư
d. Các khoản giảm trừ và dòng tiền
Các khoản chi phí giảm trừ thường được gọi là chi phí phi tiền
bởi nó không trực tiếp ảnh hưởng đến dòng tiền. Dòng tiền ra liên
quan đến các khoản giảm trừ xảy ra khi có yêu cầu giảm tài sản
liên quan. Vào mỗi thời kì ghi nhận khoản giảm trừ, không xảy ra
việc thanh toán tiền. Hầu hết các chi phí khác đều gây ra dòng
tiền ra.
Ví dụ: chi phí lương. Một vài người nhầm lẫn rằng “giảm trừ sinh
ra tiền” do họ thấy các khoản giảm trừ được cộng thêm vào phần
dòng tiền từ hoạt động SXKD của bảng lưu chuyển tiền tệ. Khoản
giảm trừ không phải là nguồn gốc của tiền, chỉ khi nào hàng hoá
hoặc dịch vụ được mua hoặc bán thì nó mới phát sinh tiền. Một
doanh nghiệp với một lượng giá trị chi phí giảm trừ lớn không tạo
ra một lượng tiền lớn hơn so với một doanh nghiệp có chi phí
giảm trừ nhỏ hơn (giả sử các khoản tạo dòng tiền khác giống
nhau). Các khoản giảm trừ làm giảm lượng tiền phát sinh của
doanh nghiệp bởi vì nó là chi phí phi tiền do đó trên bảng lưu
chuyển tiền tệ chi phí giảm trừ được cộng vào thu nhập để tính
dòng tiền từ hoạt động SXKD.
Đối với thuế: mặc dù các khoản giảm trừ là chi phí phi tiền nhưng
thông qua thuế nó có ảnh hưởng đến dòng tiền. Các khoản giảm
trừ là các chi phí có thể ảnh hưởng đến thuế thu nhập. Chi phí
giảm trừ càng lớn thì thuế TN càng thấp. Do thuế được thu bằng
tiền nên một sự giảm thuế dẫn đến tăng dòng tiền ra của doanh
nghiệp.
III. Dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Phần này liên quan đến các tài khoản (TK) mua và thanh lí các
công cụ sản xuất của doanh nghiệp, các khoản đầu tư vào chứng
khoán của các doanh nghiệp khác và các khoản cho khách hàng
vay. Các tài khoản trên bảng cân đối kế toán bao gồm các khoản
đầu tư ngắn hạn và dài hạn và quyền sở hữu, đất đai nhà xưởng,
thiết bị. Các mối quan hệ giữa các TK trên bảng cân đối kế toán
và ảnh hưởng lên dòng tiền thường gặp là:
Các TK liên quan trên bảng CĐKT
Hoạt động đầu tư
Ảnh hưởng dòng tiền
Quyền sở hữu đất đai, trang thiết bị
Mua
Bán
Dòng tiền ra
Dòng tiền vào
Các khoản đầu tư ngắn và dài hạn
Mua
Bán
Dòng tiền ra
Dòng tiền vào
Phần dòng tiền từ các hoạt động đầu tư cho thấy thông tin quan
trọng về chiến lược của doanh nghiệp. Với nhiều doanh nghiệp, tỉ
lệ tài sản hữu hình có thể cho thấy đó là các khoản đầu tư ít rủi
ro. Khi một doanh nghiệp trong ngành công nghiệp xây dựng
công suất quá mức cần thiết để đáp ứng nhu cầu khách hàng thì
chi phí để duy trì và tài trợ cho dự án đó có thể đẩy doanh nghiệp
đến phá sản.
Nhiều nhà nghiên cứu sử dụng tỉ lệ nguồn vốn thu được để đánh
giá khả năng tài trợ vốn để thực hiện dự án và mua thiết bị cho
SXKD
Tỷ lệ nguồn vốn thu: dòng tiền từ hoạt động SXKD / tiền chi cho
dự án và trang thiết bị
IV. Dòng tiền từ hoạt động tài chính
Phần này phản ánh những thay đổi trong hai khoản trách nhiệm
pháp lí ngoài vốn, những chứng từ phải trả (hay các khoản nợ dài
hạn), các khoản nợ dài hạn đến hạn trả cũng như những thay đổi
của các tài khoản vốn cổ đông và trách nhiệm pháp lí dài hạn.
Những TK trong bảng cân đối kế toán này liên quan đến việc phát
hành và thanh toán các món nợ và cổ phiếu và chi trả các lợi tức.
Các mối quan hệ chủ yếu bao gồm các mối quan hệ sau:
Các TK liên quan trên bảng CĐKT
Hoạt động tài chính
Ảnh hưởng dòng tiền
Giấy nợ NH
Phát hành giấy nợ nhận tiền
Thanh toán nợ
Dòng tiền ra
Dòng tiền vào
Nợ dài hạn
Phát hành trái phiếu nợ nhận tiền
Trả nợ
Dòng tiền ra
Dòng tiền vào
Cổ phiếu thông thường, vốn trả thêm
Phát hành cổ phiếu
Mua lại cổ phiếu bằng tiền
Dòng tiền ra
Dòng tiền vào
Thu nhập chưa chia
Trả cổ tức
Dòng tiền ra
Các hoạt động tài chính liên quan đến phát sinh vốn từ các chủ
nợ hoặc chủ sở hữu:
- Phát sinh từ phát hành khoản nợ ngắn và dài hạn: nhận tiền từ
việc đi vay NH hoặc các tổ chức tín dụng khác hoặc phát hành
trái phiếu ra công cộng. Nếu các khoản nợ được phát hành để
nhận các tài sản khác không phải là tiền thì không được coi thuộc
phần dòng tiền từ hoạt động tài chính của bảng lưu chuyển tiền
tệ.
- Việc chỉ trả gốc các khoản nợ ngắn và dài hạn: các dòng tiền ra
liên quan đến các khoản nợ gồm khoản tiền trả gốc thường kì
cũng như việc trả nợ trước thời hạn. Phần tiền trả nợ gốc được
coi là thuộc dòng tiền từ hoạt động tài chính, phần tiền trả lãi là
dòng tiền từ hoạt động SXKD.
- Phát sinh từ phát hành cổ phiếu: liên quan đến các khoản tiền
nhận từ việc bán các cổ phiếu thông thường cho nhà đầu tư. nó
không gồm các khoản cổ phiếu phát hành chi trả cho các món
khác không phải tiền như phát hành cổ phiếu trả lương công
nhân.
- Mua cổ phiếu hoặc bán cổ phiếu: dòng tiền ra bao gồm khoản
trả bằng tiền để mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp từ cổ đông.
- Tiền trả cổ tức: là khoản tiền trả cổ tức cho các cổ đông trong
năm. Nhiều người phân vân tại sao khoản tiền lãi trả cho chủ nợ
thuộc dòng tiền từ hoạt động SXKD còn tiền trả cổ tức lại thuộc
dòng tiền từ hoạt động tài chính. Nhớ rằng lãi suất được ghi trên
báo cáo kết quả kinh doanh trực tiếp liên quan đến thu nhập (là
hoạt động SXKD). Còn cổ tức thì không bởi chúng là sự phân
phối thu nhập.
Việc phát triển lâu dài của doanh nghiệp thường được tài trợ từ
ba nguồn chính: tiền từ hoạt động SXKD của chính doanh nghiệp,
từ phát hành cổ phiếu và từ vay mượn dài hạn. Các nguồn lực tài
chính được sử dụng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến
độ rủi ro và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Bảng lưu chuyển
tiền tệ cho thấy ban quản lí đã lựa chọn phương cchs nào để tài
trợ sự phát triển của doanh nghiệp. Các thông tin trên có thể giúp
đánh giá cấu trúc vốn và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp.
V. Kết luận
Bảng lưu chuyển tiền tệ là một trong những bảng tài chính quan
trọng của doanh nghiệp. Mục đích ban đầu của nó là cung cấp
thông tin dòng tiền theo hướng tối đa hoá lợi ích với nhà đầu tư,
các chủ nợ và những người khác quan tâm đến dòng tiền dự tính
trong tương lai của doanh nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_luu_chuyen_tien_te_scf.pdf