1.1-Quan niệm hoạt động luật sư như một nghề
nghiệp trong xã hội không phải đã được thừa nhận
trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta trong
suốt một thời gian dài cho đến trước thời điểm ban
hành Pháp lệnh luật sư năm 2001. Thực tế này có căn
nguyên về mặt lịch sử và từ quan niệm chung của xã
hội, nhất là khi nước ta trải qua một quá trình lịch sử
dài lâu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Về mặt khoa
học, khái niệm nghề luật nói chung và nghề luật sư
nói riêng chưa xuất hiện phổ biến trong các tác phẩm
khoa học pháp lý, trong các văn bản pháp quy và đời
sống xã hội.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀN VỀ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NGHỀ
LUẬT SƯ
PHAN TRUNG HOÀI
Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh
1. Khái niệm nghề luật sư:
1.1- Quan niệm hoạt động luật sư như một nghề
nghiệp trong xã hội không phải đã được thừa nhận
trong hệ thống pháp luật thực định ở nước ta trong
suốt một thời gian dài cho đến trước thời điểm ban
hành Pháp lệnh luật sư năm 2001. Thực tế này có căn
nguyên về mặt lịch sử và từ quan niệm chung của xã
hội, nhất là khi nước ta trải qua một quá trình lịch sử
dài lâu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Về mặt khoa
học, khái niệm nghề luật nói chung và nghề luật sư
nói riêng chưa xuất hiện phổ biến trong các tác phẩm
khoa học pháp lý, trong các văn bản pháp quy và đời
sống xã hội. Thực tế, khi đánh giá cả một quá trình
lịch sử, thời gian gần đây có ý kiến nhận định ở Việt
Nam, nghề luật cũng được coi trọng, nhất là từ sau
năm 1945 và hệ thống văn bản về nghề và hành nghề
luật đã tương đối hoàn chỉnh1. Ý kiến này tuy có cơ
sở lịch sử của nó, nhưng chưa phản ánh được bản
chất và nội hàm hoàn chỉnh của khái niệm nghề luật
sư. Chỉ vào cuối năm 2001, khi ban hành Pháp lệnh
luật sư mới, Trường Đào tạo các chức danh tư pháp
thuộc Bộ Tư pháp mới mở khóa đầu tiên chính thức
đào tạo luật sư. Khi bàn tới khái niệm nghề luật sư,
về phương diện lý luận, cần đặt nó trong bối cảnh so
với các nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị,
chuẩn mực nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong
sự phát triển của xã hội.
Có ý kiến quan niệm việc hành xử chức năng luật sư
như là một thiên chức (mission) hơn là một nghề
nghiệp (profession) để mưu sống. Trên một bình diện
khác, có tác giả cho rằng chưa có sự chính xác về mặt
ngôn ngữ khi sử dụng cụm từ “nghề luật sư” hay
“nghề nghiệp luật sư” và “hành nghề luật sư”, vì
“luật sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải
dùng để chỉ một nghề (trong tiếng Anh người ta dùng
“lawyer” để chỉ luật sư và “practice law” để chỉ hành
nghề luật). Tuy nhiên, theo tác giả, việc sử dụng cụm
từ nói trên là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và
phù hợp với Pháp lệnh luật sư năm 20012. Hoạt động
luật sư trong cơ chế thị trường được coi là một loại
hình dịch vụ nghề nghiệp, được điều chỉnh bằng các
đạo luật về hành nghề luật sư và các luật lệ về kinh
doanh. Tuy nhiên, giữa các nước theo hệ thống tập
quán pháp và các nước theo hệ thống luật thành văn
có những điểm khác nhau trong quan niệm về nghề
luật sư. Các nước theo tập quán pháp coi nghề luật sư
là một nghề kinh doanh, nhưng thuộc loại hình kinh
doanh đặc biệt; còn các nước theo hệ thống luật thành
văn nhìn chung coi hoạt động luật sư là một trong
những nghề tự do (luật sư, công chứng, kiểm toán,
bác sỹ, kiến trúc sư…)3. Ngày nay, theo một quan
điểm được đa số các nhà nghiên cứu pháp luật ủng
hộ, “có đầy đủ lý do để khẳng định rằng luật sư là
một nghề cao quý trong xã hội và càng được tôn vinh
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phấn đấu xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ văn minh”4.
Tuy nhiên, xác định hoạt động luật sư như là một
nghề cao quý không thể thiếu trong xã hội và cơ chế
pháp lý điều chỉnh hoạt động nghề nghiệp này như
thế nào vẫn đang là những vấn đề lý luận và thực tiễn
pháp lý cần nghiên cứu thấu đáo nhằm đưa ra các giải
pháp cho sự hoàn thiện và phát triển của nghề luật sư.
Trước hết, hiện nay trong một số văn kiện của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, hoạt động luật sư được
coi là hoạt động “bổ trợ tư pháp” . Quan niệm này
xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của luật sư thường
gắn rất chặt với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử của Tòa án. Vì thế, tổ chức nghề
nghiệp của luật sư (Đoàn, Hội luật sư) thường được
thành lập trong phạm vi thẩm quyền tài phán của một
Tòa án địa phương theo công thức: Tòa án địa
phương/ Đoàn luật sư địa phương/ luật sư địa
phương. Cũng vì lý do đó mà nhiều nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam đã coi luật sư là một hoạt
động “bổ trợ tư pháp”5. Trong hệ thống các quy định
pháp luật về tố tụng, luật sư được xác định là “người
tham gia tố tụng”, có địa vị pháp lý hoàn toàn khác so
với những người tiến hành tố tụng. Trong khi đó, xét
về bản chất thì chức năng bào chữa tồn tại độc lập và
đối trọng với chức năng công tố như là một tất yếu
khách quan tự thân của tranh tụng hình sự. Xét ở một
bình diện khác, một quan điểm rất đáng chú ý là
trong luật tố tụng hình sự thực định hiện hành, chức
năng bào chữa không chỉ thuộc về bên bào chữa mà
còn thuộc về cả bên buộc tội và cơ quan xét xử nữa6.
Vì thế, xếp hoạt động luật sư vào khuôn khổ của các
hoạt động “bổ trợ tư pháp” vô hình trung đã làm giảm
nhẹ đi ý nghĩa sâu xa và các giá trị xã hội mà hoạt
động này mang lại cho sự phát triển của dân chủ nói
chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Thực tế cho
thấy khi giải quyết tranh chấp giữa cá nhân và cá
nhân hay giữa cá nhân với cơ quan Nhà nước, hầu hết
các nước trên thế giới đều có thành lập 3 định chế:
Một là công tố nghiêng về buộc tội; hai là ngọn đèn
khách quan soi sáng sự thật dưới mọi khía cạnh để
cho cơ quan xét xử thực hành thiên chức của mình
một cách công bằng. Định chế thứ ba bắt buộc phải là
định chế luật sư, độc lập với cơ quan buộc tội và cơ
quan xét xử. Tính chất độc lập này không thể chỉ giới
hạn trong phạm vi tranh tụng tại phiên tòa, mà còn
mở rộng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngay
như ở Nhật Bản, một nước châu Á, chỉ đến 5 năm
gần đây, trong nhận thức của giới tư pháp đã bắt đầu
có những cải cách thật sự khi xác định luật sư là một
chức danh tư pháp và chế định về luật sư được coi là
một trong ba chiếc cánh nâng đỡ nền tư pháp Nhật
Bản. Trong điều kiện phát triển của xã hội hiện nay
và yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp, một điều
dễ nhận thấy là luật sư đã được nhìn nhận như là một
chủ thể độc lập và quan trọng trong quá trình tranh
tụng, là những người hành nghề chuyên nghiệp về
pháp luật. Theo các quy định của Pháp lệnh luật sư
năm 2001, họ còn được đào tạo nghề nghiệp và phải
qua kỳ thi và thời gian tập sự mới được cấp chứng chỉ
hành nghề luật sư. Xét về vị trí, vai trò của luật sư
trong xã hội, họ còn có sứ mạng bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật được đúng
đắn, bảo vệ công bằng và chính nghĩa. Có thể khẳng
định rằng, giá trị của hoạt động nghề nghiệp luật sư
không khác gì với những người làm công tác giám sát
và thực thi pháp luật khác. Nếu như chúng ta đưa ra
các tiêu chí như luật sư không được coi là “công
chức”, hay họ không phải là người được Nhà nước
trả lương và các khoản bảo hiểm xã hội khác, hoặc
bản chất nghề nghiệp không tạo ra cho họ thứ “quyền
lực” mà các nhân viên điều tra, kiểm sát viên hay
thẩm phán đã có để làm căn cứ phân biệt tính chất
nghề nghiệp luật sư thì hoàn toàn không đúng cả về
phương diện lý luận và thực tiễn.
1.2- Về mặt ngữ nghĩa, khái niệm nghề luật sư bao
gồm hai cụm từ: Nghề với tính chất là một nghề
nghiệp và luật sư chỉ những người đủ điều kiện hành
nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư.
Theo Từ điển tiếng Việt, nghề là “công việc chuyên
làm theo sự phân công của xã hội” hoặc hiểu theo
nghĩa thứ hai là “thành thạo trong một công việc nào
đó”. Nghề nghiệp được hiểu là “nghề nói chung”, còn
nghề tự do có nghĩa là “nghề tự mình làm để sinh
sống, không thuộc tổ chức, cơ quan nào7. Nếu theo
giải thích của Từ điển tiếng Việt nêu trên, cách hiểu
nghề luật sư như một nghề tự do lại không hoàn toàn
phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng của nghề
nghiệp này. Luật sư hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật và cùng với việc được cấp chứng chỉ hành
nghề, phải đăng ký hoạt động trong một tổ chức hành
nghề luật sư nhất định và sinh hoạt trong một tổ chức
xã hội nghề nghiệp nhất định nơi địa phương mình cư
ngụ. Mặt khác, khái niệm “nghề tự do” nói trên mới
đặt nặng khía cạnh “kiếm sống” mà không bao hàm
được vị trí, vai trò của nghề nghiệp trong sự phát
triển của xã hội. Trong luật thực định của một số
nước, luật sư được coi là một chủ thể độc lập trong
hoạt động tư pháp, nhưng họ quan niệm tính chất của
nghề nghiệp là tự do. Theo quan điểm của chúng tôi,
hiện nay về mặt lý luận, chúng ta chưa làm rõ được
tính chất “tự do” của nghề nghiệp và luật sư là người
hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, bởi đây là hai
khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nói tới tính chất là
nói tới thuộc tính cơ bản của một sự vật, trong trường
hợp này, luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt động tư
pháp, là người thực thi và truyền bá pháp luật của
Nhà nước nên không thể nói tính chất của nghề
nghiệp này là nghề tự do. Tính chất độc lập cần phải
được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn
nói tới tự do là nói tới phương thức hành nghề tự do
của luật sư, như có thời gian và không gian hoạt động
tự do, có quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị
những hạn chế, bó buộc như một công chức Nhà
nước.
Từ những phân tích, kiến giải nêu trên, lần đầu tiên
chúng tôi khái quát hóa và định nghĩa khái niệm nghề
luật sư như sau: “Nghề luật sư là một nghề luật, trong
đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc
lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy
định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần
tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
2- Đặc điểm của nghề luật sư:
Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín
nghề nghiệp của luật sư và phương thức tự do trong
hành nghề luật sư . Nhiều ý kiến quan niệm nghề luật
sư có những điểm tương đồng với nghề bác sỹ. Nghề
luật sư cần có kiến thức pháp luật, thông thạo nghề
nghiệp để chăm sóc những “con bệnh pháp luật” của
mình. Có tác giả quan niệm: “Nghề luật sư đòi hỏi
tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cao, tương tự như
nghề y. Luật sư mang trên vai gánh nặng niềm tin mà
xã hội và khách hàng ủy thác cho họ. Nếu như người
bệnh tin tưởng, phó thác sức khỏe và cuộc sống của
mình vào người bác sỹ vì người bệnh hy vọng rằng
chính bác sỹ mới là người có đủ khả năng cứu giúp
họ thì cũng tương tự như vậy, khách hàng đặt quyền
lợi vật chất hoặc cao hơn nữa là sinh mạng chính trị,
tự do, danh dự, nhân phẩm…của mình vào người luật
sư”8. Cách nhìn và so sánh như trên được nhiều
người tán đồng. Tuy nhiên, theo quan điểm của
chúng tôi, cũng cần chỉ ra sự khác biệt rất quan trọng
của hai nghề này, phương thức “tác động” của nghề
nghiệp đối với khách hàng của mình khác nhau: Bác
sỹ có thể chủ động và chịu trách nhiệm về số phận
của bệnh nhân, thông qua hành vi, thao tác mổ xẻ,
điều trị trực tiếp; còn luật sư giúp đỡ cho khách hàng
của mình về phương diện pháp lý, nhưng nhiều
trường hợp, số phận của khách hàng lại không phụ
thuộc vào sự trợ giúp của luật sư, mà chịu sự định
đoạt của pháp luật.
Đã có một số tác giả đề cập đến các đặc trưng của
nghề luật nói chung, nhưng đối với nghề luật sư, việc
xác định các đặc điểm riêng có cần phải xuất phát từ
bản chất, vị trí, vai trò của nghề luật sư trong toàn bộ
các định chế chính trị và tư pháp ở thượng tầng kiến
trúc và các quan niệm mang tính phổ biến được hình
thành trong lịch sử thế giới và ở Việt Nam.
Theo quan niệm đó, có thể xem xét các đặc điểm của
nghề luật sư trên các bình diện sau đây:
2.1- Nghề luật sư trước hết là một nghề luật:
Nói nghề luật sư là một nghề luật trước hết nhằm để
phân biệt với các nghề khác trong xã hội. Như vậy,
nói tới nghề luật là nói tới công việc chuyên môn của
những người hoạt động liên quan đến pháp luật, như
nghề thẩm phán, công tố, công an, công chứng… Tuy
nhiên, nghề luật sư có những khác biệt với những
nghề liên quan đến pháp luật nói trên không chỉ ở
chức năng, theo sự phân công của xã hội, mà còn ở
chỗ nó được thể hiện qua các phương thức hành nghề
một cách tự do. Luật sư không phải là một công chức,
không phải là một chức vụ được đề cử hoặc đề bạt,
mà là một danh xưng được đặt ra theo sự phát triển
của lịch sử và được pháp lý hóa. Nghề luật sư bao
hàm ý nghĩa chỉ những người hội đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật mới được phép hành nghề luật
sư. Điều này cũng phân biệt một số trường hợp được
coi là người bào chữa hoặc là người đại diện theo ủy
quyền như quy định trong pháp luật tố tụng (như bào
chữa viên nhân dân, người thân thích của bị can, bị
cáo…) nhưng không phải là người hoạt động trong
nghề luật sư nhằm giúp cho quá trình hành nghề được
hợp pháp.
2.2- Nghề luật sư mang tính chất dịch vụ và được
nhận thù lao của khách hàng
Tính chất dịch vụ của nghề luật sư không phải đã
được thừa nhận rộng rãi. Nhiều người quan niệm
không nên đề cập đến tính chất dịch vụ như một
trong những đặc điểm của nghề luật sư bởi sự cao
quý của nghề nghiệp này. Hơn nữa, hiểu dịch vụ như
là “đổi trao, mua bán” thứ hàng hóa là “kiến thức - kỹ
năng pháp luật” sẽ hạ thấp vai trò của luật sư trong
việc thúc đẩy sự phát triển dân chủ trong hoạt động
tư pháp và xã hội nói chung.
Tính chất dịch vụ của nghề luật sư là một loại dịch vụ
đặc biệt, khác với quan niệm về dịch vụ thông
thường. Theo Điều 5.5 Luật Thương mại, dịch vụ
thương mại được hiểu gồm những dịch vụ gắn với
việc mua bán hàng hóa. Trong Hiệp định thương mại
Việt- Mỹ, lại xuất hiện khái niệm thương mại dịch
vụ, được định nghĩa là việc cung cấp một dịch vụ (a)
từ lãnh thổ của một bên vào lãnh thổ bên kia; (b) tại
lãnh thổ của một bên cho người sử dụng dịch vụ của
bên kia và (c) bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một
bên, thông qua sự hiện diện của các thể nhân của một
bên tại lãnh thổ của bên kia. Trong Bộ luật dân sự
Việt Nam, hợp đồng dịch vụ được hiểu là sự thỏa
thuận giữa các bên, theo đó bên làm dịch vụ thực
hiện một công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên
thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên làm dịch vụ.
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có
thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không
trái đạo đức xã hội. Theo Điều 527 Bộ luật dân sự,
“bên thuê dịch vụ phải trả tiền công theo thỏa thuận,
khi công việc đã hoàn thành; nếu không thỏa thuận
về mức tiền công, thì mức tiền công là mức trung
bình đối với công việc cùng loại tại thời điểm và địa
điểm hoàn thành công việc”.
Nhìn ra thế giới, một trong những kết quả quan trọng
của vòng đàm phán Uruguay là lần đầu tiên trong lịch
sử, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ được đưa
vào hệ thống thương mại thế giới, được điều chỉnh
bởi Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới
WTO. Theo GAST, khái niệm dịch vụ pháp lý theo
nghĩa rộng bao gồm dịch vụ tư vấn pháp luật
(Advisory Services), dịch vụ đại diện (Representation
Services) và tất cả các hoạt động liên quan đến tư
pháp như xét xử, công tố, bào chữa công… Tuy
nhiên, ở hầu hết các nước trên thế giới, các hoạt động
liên quan đến tư pháp được coi là dịch vụ do các cơ
quan Chính phủ thực hiện trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình, nên các hoạt động này không
thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS. Trong Bảng
phân loại các lĩnh vực dịch vụ của WTO, “dịch vụ
pháp lý” là một phân ngành “dịch vụ nghề nghiệp”
(Professional Services) thuộc lĩnh vực “dịch vụ kinh
doanh” (Bussiness Services). Theo Danh mục phân
loại tạm thời các lĩnh vực dịch vụ (PCPC) của Liên
Hợp quốc kèm theo mã số cho từng lĩnh vực và phân
ngành dịch vụ cụ thể thì dịch vụ pháp lý có mã số
861 và được phân chia thành nhiều tiểu phân ngành
như: (a) dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến
pháp luật hình sự (PCPC 86111); (b) dịch vụ tư vấn
và đại diện trong tố tụng tư pháp liên quan đến các
lĩnh vực khác của pháp luật (PCPC 86119); (c) dịch
vụ tư vấn và đại diện trong các thủ tục hành chính,
trọng tài (PCPC 86120) (d) dịch vụ lập và xác nhận
các giấy tờ pháp lý (PCPC 86130) và (e) các dịch vụ
pháp lý khác (PCPC 8619)… Việt Nam đã tham gia
ký Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) vào
ngày 15-12-1995 tại Băng cốc (Thái Lan), trong đó
mở rộng mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ các về
chiều rộng lẫn chiều sâu ra ngoài khuôn khổ những
cam kết của GATS. Tại vòng đàm phán đầu tiên về
hợp tác dịch vụ vào tháng 1-1996, Việt Nam đã đưa
ra cam kết về dịch vụ tư vấn pháp luật và các cam kết
này về cơ bản dựa vào các quy định của pháp luật
hiện hành trong lĩnh vực này9. Tuy nhiên, khi coi
nghề luật sư mang tính chất dịch vụ, có nghĩa là nói
đến khía cạnh dịch vụ pháp lý hiểu theo nghĩa ở trên.
Vì là dịch vụ nên Pháp lệnh luật sư quy định “khách
hàng phải trả thù lao khi sử dụng dịch vụ pháp lý của
Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh”, đồng thời
quy định rõ căn cứ và phương pháp tính thù lao.
2.3- Nghề luật sư gắn liền với số phận con người:
Có thể nói, nghề luật sư, cũng như các nghề luật
khác, từ bao đời nay được coi là một nghề nghiệp gắn
bó với số phận của con người. Đồng chí Lê Duẩn
từng căn dặn cán bộ ngành KS,TA,CA: “Lý tưởng
của chúng ta là chống áp bức, bóc lột, một lòng một
dạ vì nhân dân mà phục vụ. Phải thấu suốt lý tưởng
đó, kiên quyết không dung thứ những điều oan ức và
không làm điều oan cho bất cứ một ai. Một người bị
tội oan, chẳng những người ấy đau khổ, mà gia đình
con cái họ càng đau khổ hơn. Làm điều oan cho một
người nào đó thì chúng ta không còn lẽ sống nữa, bởi
vì chúng ta là những người cộng sản. Cán bộ các
ngành CA,TA,KS phải thấy hết trách nhiệm cao cả và
nặng nề của mình” (phát biểu tại Hội nghị toàn ngành
Kiểm sát tháng 3-1967).
Phần nhiều các ý kiến đều quan niệm luật sư có
nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho
bị can, bị cáo đồng thời với nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế XHCN, tôn trọng sự thật và pháp luật. Hai nhiệm
vụ trên không mâu thuẫn với nhau, trái lại gắn bó hữu
cơ và mật thiết với nhau. Tuy nhiên, có tác giả lại
quan niệm sứ mạng cao cả và thiêng liêng của luật sư
là bênh vực và bảo vệ kẻ yếu. “Kẻ yếu” ở đây được
hiểu là “người dân trong quan hệ với cơ quan công
quyền, người kém hiểu biết hơn và nghèo hơn trong
quan hệ với người hiểu biết hơn và giàu hơn…Kẻ
yếu, để làm tăng sức mạnh của mình thì có một cách
tốt là sử dụng luật sư”10. Quan niệm như trên không
phải là một quan niệm đúng cả về phương diện lịch
sử và bản chất nghề nghiệp luật sư. Không thể quan
niệm quyền lợi người dân như là “kẻ yếu” chỉ vì họ
kém hiểu biết hoặc nghèo hơn người khác. Phải nhìn
nhận rằng, dân chủ và nhân đạo là bản chất của chế
độ XHCN. Nhà nước ta coi trọng quyền của con
người. Những quyền này được Hiến pháp quy định
(Điều 70): “Công dân có quyền được pháp luật bảo
hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”.
Quyền này được nêu thành nguyên tắc cơ bản trong
Bộ luật TTHS và được xếp lên hàng đầu. Sự gắn bó
của nghề nghiệp luật sư với số phận của con người,
bất luận trong trường hợp nào, cũng được coi là sự
kết nối tự nhiên, mang tính bản chất. Đối tượng của
nghề nghiệp luật sư, vì thế không đơn thuần mang
tính dịch vụ và chỉ nghĩ đến việc kiếm lời từ dịch vụ
đó, mà trước hết chính là nhằm đáp ứng nhu cầu
chính đáng của người dân cần được sự trợ giúp về
mặt pháp lý.
2.4- Nghề luật sư hoạt động dựa trên pháp luật và quy
chế trách nhiệm nghề nghiệp
Cũng như bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào khác,
nền tảng hoạt động của nghề luật sư phải dựa trên
pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp.
Pháp luật về luật sư được coi là hệ thống các quy
phạm pháp luật xác định vị trí, vai trò của luật sư
trong xã hội, quy định các quyền và nghĩa vụ của luật
sư trong hành nghề, phạm vi quản lý Nhà nước đối
với hoạt động luật sư và tính tự quản trong tổ chức
nghề nghiệp luật sư; xử lý vi phạm trong hoạt động
nghề nghiệp… Tuy nhiên, khi nói tới quy chế trách
nhiệm nghề nghiệp như chuẩn mực nền tảng đạo đức
và kỷ luật của hoạt động luật sư thì cũng không có
nghĩa là quy chế này “chi phối luật sư cả trong công
việc và đời sống riêng của họ” như có tác giả đã đề
cập. Ở đây, chúng ta chỉ có thể nói đến sự chi phối
trong hoạt động nghề nghiệp và những tác động của
hành vi ứng xử của luật sư trong cuộc sống riêng có
thể làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của luật sư.
Tuy đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật
và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư có khác
nhau, nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và
chi phối lẫn nhau. Pháp luật về luật sư có tác dụng
như “hành lang”, “khuôn mẫu chung” cho luật sư
hoạt động với các quyền và nghĩa vụ cụ thể trước
pháp luật, còn quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật
sư lại chủ yếu điều chỉnh hành vi ứng xử của luật sư
trong hoạt động nghề nghiệp và trong xã hội, tuy
không hoàn toàn mang tính bắt buộc nhưng cũng đòi
hỏi phải được sự tôn trọng từ phía các luật sư. Trong
nhiều trường hợp, đối với nghề nghiệp luật sư, các
quy tắc ứng xử thuộc về phạm trù đạo đức lại chi
phối và có tác động lớn lao đến uy tín, danh dự của
luật sư và ảnh hưởng chi phối rất nhiều đến chất
lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Sự cộng
hưởng qua lại giữa pháp luật và quy tắc trách nhiệm
nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư là một trong
những minh chứng cho mối quan hệ giữa pháp luật
và đạo đức nói chung.Tuy nhiên, điều chúng tôi
muốn bàn thêm chính là ở chỗ, khi xem xét mối quan
hệ giữa pháp luật và đạo đức nói chung, người ta
không thể không đề cập đến một vấn đề lý luận rất
quan trọng là với sự trùng khớp về nội hàm của hai
khái niệm này trong mục đích điều chỉnh hành vi của
xã hội, cần phải nhìn thấy “tính pháp lý” của các quy
phạm đạo đức và “tính đạo đức” của các quy phạm
pháp luật. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển
của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về
bảo đảm quyền bào chữa của công dân, về luật sư nói
riêng, đã có một giai đoạn khá dài trong lịch sử,
nhiều quan hệ xã hội được điều chỉnh chủ yếu bằng
các hương ước, luật tục và trong nhiều trường hợp,
tính “vượt trội” của thứ lệ làng này cao hơn phép
nước. Các quy phạm xã hội như hương ước, luật tục
đã không chỉ tồn tại dưới dạng truyền khẩu, bất thành
văn, mà đã được nâng lên một bước với việc được in
ấn dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói cách khác,
các quy phạm xã hội này được “luật hóa” thông qua
việc thể hiện bằng các văn bản mang tính chế ước, có
tác dụng cưỡng chế nhất định, thứ cưỡng chế không
xuất phát từ quyền lực Nhà nước. Ở chiều ngược lại,
nhiều quy phạm pháp luật lại mang tính định hướng,
giáo dục hơn là răn đe, trừng phạt.
Vấn đề này có ý nghĩa lý luận to lớn ở chỗ, không chỉ
đôi khi các giá trị đạo đức có ý nghĩa ràng buộc trách
nhiệm công dân lớn hơn pháp luật, mà thật sự nền
tảng phát triển của pháp luật trong đời sống sẽ có một
“dung môi” tốt hơn nếu tính tự giác và ý thức pháp
luật được hình thành từ đạo lý, từ bề dày lịch sử
truyền thống văn hóa của dân tộc. Bất luận trong
trường hợp nào, vấn đề cốt lõi là làm sao cho người
dân nhận ra được nhu cầu về dịch vụ pháp lý một
cách trung thực và lựa chọn được hình thức dịch vụ
thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
2.5- Nghề luật sư là bất khả kiêm nhiệm:
Thông lệ hành nghề luật sư trên thế giới là bất khả
kiêm nhiệm. Tuy nhiên, do đặc điểm lịch sử của đất
nước và quá trình hình thành nghề luật sư ở Việt
Nam, nên trong một thời gian khá dài sau giải phóng,
pháp luật về luật sư vẫn cho phép duy trì chế độ luật
sư kiêm chức. Những luật sư kiêm chức này thực
chất vẫn bảo đảm các tiêu chuẩn hành nghề luật sư,
nhưng họ đang là công chức hoặc những người làm
việc liên quan đến pháp luật khác, chiếm tỷ lệ gần
40% số lượng luật sư trong cả nước. Khiếm khuyết
của tình trạng kiêm nhiệm này trong thời gian qua là
luật sư kiêm chức không thật sự sống với nghề và
bằng nghề, thời gian dành cho hoạt động luật sư bị
chi phối bởi thời gian làm việc mang tính bắt buộc
của công chức, thậm chí gây phiền hà cho các cơ
quan tiến hành tố tụng khi vắng mặt tại phiên tòa xét
xử bị cáo mà mình đã nhận trách nhiệm bào chữa.
Tính không chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư về
phương diện này còn làm cho người cần hỗ trợ về
pháp lý, bị can, bị cáo cảm thấy không tin tưởng vào
sự tận tâm của luật sư, các cơ quan tiến hành tố tụng
vì thế mà có đánh giá không tốt về hoạt động nghề
nghiệp luật sư, giảm thiểu vai trò luật sư trong đời
sống xã hội.
Bất khả kiêm nhiệm như một đặc điểm trong hoạt
động của nghề luật sư không chỉ bảo đảm hoạt động
này mang tính chuyên nghiệp, mà còn góp phần nâng
cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội. Mặt khác,
về phương diện pháp lý, Pháp lệnh công chức quy
định cán bộ, công chức không được thành lập và
tham gia thành lập, quản lý điều hành các loại hình
doanh nghiệp, hợp tác xã, trường học, tổ chức nghiên
cứu khoa học tư; không được tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 75_629.pdf